Cần nhận biết sự mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn của ông Trọng trong công tác xây dựng và lãnh đạo đảng (Lê Quí Trọng và Lê Quang Ngọ)
Lạ thay bài luận văn “Phong vị ca dao, dân ca trong thơ Tố Hữu” (3)
thực sự đã là câu thần chú: “Vừng ơi! Mở ra!” cho câu chuyện cổ tích
của thế kỷ 20 trên mảnh đất hình chữ S đầy bi kịch. Câu thần chú mầu
nhiệm này đã mở ra một thế giới mới cho tương lai và sự nghiệp của Ali
Baba thời hiện đại, anh Cử nhân văn chương Nguyễn Phú Trọng.
Cách đây tròn 50 năm, vào mùa xuân năm
1967 của thế kỷ trước, sau khi bài thơ chúc tết của Hồ Chủ tịch được
phát qua Đài tiếng nói Việt Nam, lớp lớp thanh niên miền Bắc đã phải lần
lượt lên đường làm nghĩa vụ quân sự để chống lại cuộc chiến tranh phá
hoại ngày càng ác liệt của không quân Mỹ tại miền Bắc và để tăng cường
sức người cho “Miền Nam trong lửa đạn, sáng ngời” (1) thì cũng
là thời điểm một anh sinh viên nông dân khoa Văn trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội đang phân vân lựa chọn luận văn tốt nghiệp sau 4 năm học đại học
và cũng đang đứng trước ngã ba đường để chọn cho mình một chỗ đứng có
sổ gạo (2) trong một xã hội đầy bon chen.
Trong những ngày nghiền ngẫm lựa chọn đề
tài, một ý nghĩ đã chợt lóe lên trong đầu anh, qua nghiên cứu văn học
và trong thực tế, anh đã nhận thấy những người lãnh đạo đảng tuy luôn ra
vẻ khiêm tốn nhưng thực tế rất muốn được người đời ca tụng. Ai cũng
biết, bác Hồ đã để cho giới văn nghệ sĩ viết các tác phẩm ca ngợi mình,
bản thân bác đã dành cả thời gian hiếm hoi sau khi thành lập chính quyền
để viết Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch
với bút danh Trần Dân Tiên cho khách quan, thì tại sao anh không chọn
đề tài khai thác thị hiếu này, và anh đã quyết định gửi gắm số phận mình
vào một nước cờ đầy toan tính.
Lạ thay bài luận văn “Phong vị ca dao, dân ca trong thơ Tố Hữu” (3)
thực sự đã là câu thần chú: “Vừng ơi! Mở ra!” cho câu chuyện cổ tích
của thế kỷ 20 trên mảnh đất hình chữ S đầy bi kịch. Câu thần chú mầu
nhiệm này đã mở ra một thế giới mới cho tương lai và sự nghiệp của Ali
Baba thời hiện đại, anh Cử nhân văn chương Nguyễn Phú Trọng.
Ngày 05. 12. 1967 anh đã được đảng mở
cánh cửa lâu đài thâm nghiêm của mình, tuyển dụng vào làm việc tại Tạp
chí Học tập, một trong ba cơ quan tuyên truyền quan trọng và chuyên
chính nhất của đảng CSVN (cùng với báo Nhân Dân và Quân đội Nhân dân) và
15 ngày sau (19. 12. 1967) anh được đặc cách kết nạp đảng.
Vào thời kỳ đó, nếu quần chúng có lý
lịch cá nhân trong sạch muốn được đứng trong đội ngũ của đảng, bản thân
phải có một quá trình làm việc rồi phấn đấu rèn luyện bề bỉ mới có thể
được cơ sở đảng nơi đó để mắt và xếp vào dạng cảm tình đảng. Và cho đến
khi được vào đảng là cả một khoảng thời gian không nhỏ. Nếu đang trong
giai đoạn đối tượng đảng vì lý do nào đó phải thuyên chuyển đến đơn vị
mới thì cá nhân đó hầu như phải làm lại từ đầu. Trong chiến tranh, môi
trường quân đội là nơi rèn luyện và thử thách con người rất khắc nghiệt
và cũng là nơi quần chúng dễ trở thành người của đảng nhất. Thế mà có
rất nhiều quân nhân với lý lịch không tỳ vết, từng tham gia nhiều trận
đánh trên nhiều chiến trường, trong người mang nhiều thương tích và bệnh
tật vì trong chiến tranh phần lớn thời gian dài quân ngũ phải sống nơi
lam sơn chướng khí, đời sống vật chất thiếu thốn, khi gần hết tuổi thanh
xuân trở về làm phó thường dân, tài sản chính trị vẫn như trước khi
nhập ngũ.
Việc anh Cử nhân văn chương Trọng được
đặc cách vào đảng nhờ câu thần chú kỳ diệu có thể là một trong những
tiền lệ hiếm trong công tác phát triển đảng thời đó. Trong bó đũa
vàng mười mà đảng lựa chọn về Tạp chí Học tập này, gồm những con người
hừng hực tinh thần thi đấu Olympic với các động cơ cá nhân mãnh liệt thì
việc ông Trọng qua thời gian ngắn được chọn cột cờ cho đường
công danh rộng mở, chứng tỏ câu thần chú vẫn còn hiệu nghiệm để mở tiếp
những cánh cửa hậu cung lâu đài của đảng và thực sự bản thân ông không
phải dạng vừa đâu. Là cán bộ xây dựng đảng cao cấp ông bắt đầu với công
tác lãnh đạo đảng từ năm 1985 và cũng bắt đầu từ đây, tên tuổi ông xuất
hiện trong các trang báo đảng và cũng từ đây người ta thấy xuất hiện
những mâu thuẫn trong lý luận và giữa lý luận với thực tiễn trong con
người ông. Vì khuôn khổ của bài viết chúng tôi chỉ nêu những điều đó vào
những năm gần đây, khi ông Trọng đã là ngôi sao sáng trên chính trường
Việt Nam.
Năm 2002 với chức năng là Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương ông Trọng viết bài Vì sao Đảng ta kiên định chủ nghĩa Mác Lênin
nhằm biện hộ cho đường lối nhất quán của ban lãnh đạo đảng. Khác với
nguyên tắc trích nguồn trong các bài viết chuyên đề, trong bài này ông
Trọng dùng các dẫn chứng quá đát cho bài viết của mình để chứng minh cho
tính đúng đắn và ưu việt của chủ nghĩa Mác-Lênin (CNML). Trong bài có
đoạn ông viết: “Theo số lượng thống kê của UNESCO các tác phẩm của
Lênin đã được dịch ra 120 thứ tiếng, được đọc nhiều nhất trên thế giới,
hơn cả Tônxtôi, Sechxpia, Bandắc,…”.
Là người nghiên cứu CNML ông thừa hiểu
văn phong của Lênin khô khan nên khó tiêu hóa như thế nào, thế mà còn
được đọc nhiều hơn cả các tác phẩm văn học hàng đầu thế giới. Nếu đúng
như vậy, dân trí toàn thế giới phải cao siêu lắm, và ông cũng chẳng cần
phải tốn công viết bài này làm gì.
Ông viết tiếp: “Giá trị bền vững của
CNML … nhằm mục đích giải phóng người lao động, giải phóng xã hội khỏi
mọi áp bức, bóc lột, mọi sự tha hóa, thực hiện một xã hội công bằng,
nhân đạo. ” . Đúng là luận điểm của kẻ giáo điều, để rồi 11 năm sau
khi con người đó đã trở thành người đứng đầu đảng toàn trị, dẫn dắt cả
dân tộc đi theo chủ nghĩa tôn thờ thì đã phải thú nhận: “…Cái gì cũng phải tiền, không tiền không trôi, như ngứa ghẻ phải gãi rất khó chịu” và “Về tham nhũng tôi có thể nói hàng mấy tiếng đồng hồ”.
Phải chăng người dân đen gây ra những sự
tha hóa, bất công này trong xã hội, làm cản trở mục tiêu của đảng? Để
củng cố cho sự kiên định của đảng, ông khẳng định: “Chủ nghĩa
Mác-Lênin vẫn đang có sức hấp dẫn, chinh phục hàng tỉ con người trên
hành tinh này bởi tính khoa học, tính cách mạng và tính nhân đạo sâu sắc
của nó”. Sau hơn 10 năm sụp đổ của hệ thống XHCH, ngoài mấy nước
lẻ loi đang kiên định tôn thờ CNML, bản đồ chính trị thế giới “đỏ hóa”
được thêm bao nhiêu phần trăm nữa, đó mới chính là cái cần thiết để bài
viết của ông có sức hấp dẫn đối với người đọc.
Năm 2010, khi ông Trọng là ủy viên Bộ
Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, ông viết bài “Sự phát triển nhận thức của
Đảng ta từ cương lĩnh 1991 đến nay” (4) ông đã mượn Cương lĩnh năm 1991
để tái khẳng định mục tiêu và định hướng của đảng: “Lúc này chúng ta
chưa có đủ cơ sở để vẽ ra toàn bộ bức tranh của xã hội tương lai một
cách hoàn chỉnh. Nhưng…chúng ta có thể vạch ra những nguyên tắc, phương
hướng lớn cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta…sau này khi
thực tiễn bộc lộ những vấn đề mới, qua tổng kết, Cương lĩnh sẽ không
ngừng được bổ xung và hòan chỉnh từng bước”.
Như vậy ông gián tiếp thú nhận, sau khi
Liên-xô, thành trì vững chắc của phe XHCN bị sụp đổ, đảng không còn mô
hình lý tưởng nào để sao y bản chính nên đang phải loay hoay, dò dẫm để
tiến lên CNXH. Chính vì phải lần mò, dò dẫm cho nên việc “quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo ra những biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. ”.
Như vậy khác gì ông bóc mẽ thần tượng Hồ Chí Minh, người mà đảng đang
bắt cả nước học tập làm theo tấm gương này bao nhiêu năm qua, bởi trước
đây đã khẳng định: “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh” (5).
Ông cũng khoe, Cương lĩnh 1991 là một bước tiến trong tư duy lý luận
của đảng, nó vừa quán triệt tinh thần cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về
CNXH vừa thể hiện sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất
nước trong thời kỳ mới, đó chính là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm mang tính lý thuyết này khác gì hình thức đưa một số loại cây
mọc trong môi trường tự nhiên về làm cây cảnh bonsai, nó ra đời và được
đưa vào thực tiễn gần 30 năm qua mà ngay những người thực thi nó cũng
không thể hiểu và không thể giải thích cho người khác hiểu nổi.
Một vị bộ trưởng trong chính phủ thời ba X đã phải thốt lên: “Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”(6). Bởi mãi có tìm ra đâu nên 3 năm sau khi viết bài nói trên, ông đã phải khẳng định lại: “xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”
(7). Phải chăng chỉ có ông Trọng cùng ban lãnh đạo đảng được thiên phú
nhãn quan của Don Quixote de la Mancha, do đó mới nhận biết chính xác
được vị trí đường chân trời mà CNML chỉ ra để đẫn dắt người dân hành
hương đến đó hưởng thiên đường CNCS, giống như trước đây nhờ nó, hiệp sỹ
này nhận thấy được dung nhan tuyệt sắc của Nữ Hoàng của Tình Yêu và Sắc
Đẹp lặn trong cô gái quê mập mạp nhiều mồ hôi Aldonza Lorenzo mà người
trần mắt thịt không nhận biết được. Trong khi các nước khác trong khu
vực người ta đâu có cần phải sử dụng học thuyết này, tư tưởng nọ, dẫn
đường chỉ lối mà đất nước họ càng ngày càng bỏ xa Việt Nam về nhiều mặt.
Như vậy đảng bằng mọi giá phải đạt được
mục đích của mình, không cần quan tâm đến lợi ích dân tộc, nỗi thống khổ
của nhân dân, giống như năm 1966 ông Hồ khẳng định:“Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải
Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song người Việt
Nam quyết không sợ. ”(!)(8), bởi đã có Trung quốc quyết tâm đánh Mỹ …
đến người Việt Nam cuối cùng!
Đầu năm 2011 ông Trọng đảm nhận chức vụ
Tổng bí thư, trong thâm tâm ông đã rất muốn làm tròn nhiệm vụ được giao,
để lại đấu ấn của một Tổng bí thư có học hàm, học vị hơn hẳn những
người tiền nhiệm. Oái oăm thay, khắc tinh của ông là Ba Dũng, người đã
có “công” đưa nền nền kinh tế vĩ mô của đất nước lâm vào tình trạng bất
ổn nghiêm trọng mà vẫn được tái đắc cử chức thủ tướng, khiến cho tứ trụ
triều đình nhiệm kỳ mới này dù có tên gọi kêu như nội dung khẩu hiệu để
phấn đấu mà người ta thường nghe, thường thấy: SANG TRỌNG, HÙNG DŨNG lại
trở nên khập khiễng hơn bao giờ hết. Với kinh nghiệm từ nhiệm kỳ trước
cộng với môi trường quen thuộc, ông Dũng đã tiếp tục dùng quyền lực để
phân phát quyền lực, để rồi thâu tóm và thao túng quyền lực, khiến người
dân liên tưởng đến hoàn cảnh lịch sử đất nước thời vua Lê chúa Trịnh
được lặp lại.
Tuy ông Trọng đã xóa bỏ ban chống tham
nhũng do ông Dũng đứng đầu và trực tiếp đứng đầu ban mới, nhưng thành
tích của ông trưởng ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng
chỉ được mọi người biết đến qua mấy mấy câu bao biện đầy hoa mỹ của kẻ
“vụng chèo khéo chống” cùng với giọt nước mắt cay đắng bất lực rơi vào
lịch sử. Cũng từ thời kỳ này ông Dũng được đảng tặng cho biệt danh một
ẩn số trong toán học, và có lẽ vì vậy mà ông đã làm lỗi nhịp tim của
chính trường Việt Nam cho đến khi diễn ra đại hội đảng lần thứ XII.
Khi ông Trọng sang thăm Cuba năm 2012,
ông đã có bài nói chuyện tại trường đảng cao cấp Nico Lopez. Trong bài
nói của mình ông chê CNTB: “Cùng với khủng khoảng kinh tế-tài chính
là sự khủng khoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, sự suy thái của môi trường sinh thái đang đặt ra
những thách thức vô cùng to lớn cho sự tồn tại và phát tiển của nhân
loại. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế-xã hội lấy lợi
nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật
chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ
cột của xã hội. ”(9). Thật đúng là: “Chân mình thì lấm mê mê, Đi cầm bó đuốc mà rê chân người”.
Khi đọc đến đó liệu ông có nhớ đến các
phong trào quần chúng phản đối dự án khai thác quặng bauxite ở Tây
Nguyên của đảng đề ra, nhớ đến nạn ô nhiễm môi trường, thực phẩm bẩn
hàng ngày đang đầu độc người dân mà các cơ quan chức năng thì bất lực.
Ông phê phán thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” của phương
tây không hề đảm bảo để quyền lực thực sự về nhân dân do nhân dân và vì
nhân dân, yếu tố căn bản nhất của dân chủ: “Sự rêu rao bình đẳng về
quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các
quyền đó đã đẫn đến dân chủ chỉ là hình thức mà không thực chất…. các
cuộc bầu cử được gọi là “tự do” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không
thể thay đổi các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực
tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản. ”. Vậy sau 4 năm
bài nói chuyện này thì cuộc bầu cử quốc hội khóa XIV vừa qua có thực sự
dân chủ như ông Trọng rao giảng? Ông có biết bao nhiêu ứng cử viên tự do
“lách qua” được vòng hiệp thương 3 của MTTQ địa phương, và mấy người tự
ứng cử được trúng cử đại biểu quốc hội khóa XIV?
Sau khi khối XHCN Đông Âu sụp đổ, những
người cộng sản Cuba đã tự nguyện cắp sách sang Việt Nam học hỏi kinh
nghiệm, duy trì chế độ bằng hình thức cải cách kinh tế, và từ đó họ theo
dõi rất sát xao đường đi nước bước của Việt Nam để vận dụng vào thực
tiễn. Không rõ ông Trọng có hiểu điều đó không, thế mà trong phần giới
thiệu kinh nghiệm với các bạn cộng sản Cuba, ông Trọng bê luôn cả phần
cuối bài viết Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ cương lĩnh 1991 đến nay trước đó hai năm rồi khoe: “Những
thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát tiển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà
còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư
bản chủ nghĩa có cùng mức phát tiển kinh tế:” (!) Tuy nhiên phần cuối bài ông Trọng cũng thú nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam “là công việc chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa mò mẫm, rút kinh nghiệm”. Không
biết đảng dưới sự lãnh đạo của ông Trọng lần mò và dò đẫm thế nào mà đi
chệch cả hướng đã định, đến nỗi ngoại trưởng Mỹ John Kerry mới đây phải
huýt còi: “chỉ còn ‘chủ nghĩa tư bản cuồng nhiệt’ tại Việt Nam”(10).
Khi ông Trọng sang thăm Mỹ năm 2015, ông
có bài nói chuyện tại CSIS để nhìn nhận về quan hệ hai nước và chia xẻ
tầm nhìn “hướng tới tương lai”. Phần đầu bài nói chuyện, trong phần lịch
sử quan hệ hai nước, ông nhắc đến mối liên quan của Tuyên ngôn độc lập
của Việt Nam với Tuyên ngôn độc lập của Hợp chúng quốc Hoa kỳ nhằm chứng
minh mối liên quan lâu dài của hai dân tộc, do đó ông Trọng đã thừa
nhận nước Mỹ là nhà nước đầu tiên đề ra và coi trọng quyền con người.
Đến phần quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ, ông giải thích mối khúc mắc trong
bang giao: “Vấn đề nhân quyền là vấn đề mà chính giới và dư luận Hoa
kỳ rất quan tâm, cũng là vấn đề nhạy cảm trong quan hệ hai nước. Tôi
khẳng định Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề quyền con người” (!)(11).
Quyền con người đã được quốc tế hóa
chuẩn mực, để căn cứ vào đó các nước thành viên phấn đấu, các tổ chức
quốc tế đánh giá, nó cũng giống như điều lệ đảng cầm quyền Việt Nam, để
tổ chức đảng xem xét kết nạp quần chúng vào đảng, căn cứ vào đó đánh giá
tư cách đảng viên, thế mà ông chầy bửa rằng: “hai bên còn có những
khác biệt về nhận thức và cần thông qua đối thoại thẳng thắn, xây dựng
để có cách nhìn tổng thể về những thay đổi cơ bản mang tính hệ thống, từ
đó có đánh giá khách quan hơn về vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo ở
Việt Nam”. Không rõ trước đó ông Trọng có biết Tổ chức Phóng viên Không biên giới – RSF đã nhận xét: “ …dưới quyền lãnh đạo của ông Trọng, số nhà báo và các blogger tự do bị bắt đã không ngừng gia tăng. ”
(12) mà ông mạnh mồm như vậy và cho đến ngày 02.11.16 tổ chức này vẫn
không tin vào lời nói, mà chỉ nhìn vào việc làm của ông để liệt ông vào
danh sách những kẻ thù của tự do báo chí trên thế giới (13).
Được tái cử trong đại hội XII, ông Trọng
có vẻ được rảnh tay thực hiện công việc ông còn nợ của nhiệm kỳ trước.
Nhưng hình như yếu tố Nhân Hòa không trợ giúp ông trở thành một nhà lãnh
đạo thành công mà ông hằng mong muốn, cho dù sang nhiệm kỳ này, ông hay
lạm dụng ý câu nói: “Chính phủ của dân, do dân và vì dân” của A.
Lincoln, Tổng thống thứ 16 của Mỹ và ít đề cập đến từ “các thế lực thù
địch” trong các bài nói của mình. Tuy nhiên tình hình thực tế đang chỉ
rõ, chưa bao giờ mâu thuẫn trong các mối quan hệ xã hội trở nên trầm
trọng như những ngày tháng trong năm 2016 vừa qua, làm xấu đi hình ảnh
“đảng là mẹ hiền” và người lãnh đạo nó.
Khi ông Trọng làm bí thư thành ủy Hà Nội
ông được người dân tặng cho biệt danh “lú”. Cho đến nay có rất nhiều
cách giải thích cho cái tên kép này của ông Trọng. Theo thiển ý của
chúng tôi, đây là cách của người dân ám chỉ đến sự thiếu nhanh nhạy của
một ông tiến sỹ giấy trong thực tiễn, hoặc nói theo quan điểm triết học
là bởi ông quen tư duy trìu tượng nên luôn bị “chơi vơi” giữa hiện thực khách quan. Bằng
chứng là khi thảm họa môi trường Formosa xảy ra, ông Trọng chỉ ghé thăm
kẻ gây ra thảm họa, mà không thèm thăm hỏi nạn nhân và mãi đến tháng
thứ sáu sau đó thì chính phủ mới ban hành Quyết định hành chính
1880/QĐ-TTg về định mức bồi thường thiệt hại cho người dân miền Trung,
theo tinh thần “con có khóc mẹ mới cho bú”. Thế mà trước đó, ngày 27. 05. 2016 ông rao giảng: “Trong
điều kiện ngày nay, nếu không chăm lo một cách cụ thể, thiết thực đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân thì có nói bao nhiêu về quan
điểm quần chúng, về quyền làm chủ của nhân đân cũng đều là vô nghĩa và
không có sức thuyết phục” (14). Thật đúng như câu người dân vẫn thường nói: “Đừng tin những gì đảng nói, hãy xem những việc đảng làm!”.
Ngày 17.10.2016 trong cuộc tiếp xúc với
cử tri ông Trọng gọi cuộc đấu tranh chống tham nhũng là cuộc chiến
“chống giặc nội xâm” và ông thừa nhận: “Chống ngọai xâm đã khó, chống nội xâm càng khó vì ta đánh vào ta”. Cụm từ “ta đánh vào ta” này của ông thực ra đã được ông Vũ Ngọc Hoàng, thuộc cấp của ông đề cập từ tháng 6 năm 2015: “Lợi
ích nhóm là một kiểu tham nhũng nhiêm trọng nhất, tham nhũng có tổ
chức, tham nhũng chính sách, tham những quyền lực (ghế)…Chống “lợi ich
nhóm” là công việc hết sức khó khăn phức tạp, vì không rõ “chiến tuyến”,
thuờng ở trong trạng thái lẫn lộn trắng đen, trong nó có ta và trong ta
có nó, vừa là ta lại vừa là nó. ”(15).
Vâng khó thật đấy, bởi ông làm công tác
xây dựng đảng từ khi còn trai trẻ đến nay và lãnh đạo bao nhiêu năm thế
mà đến giờ đảng viên có chức quyền có “Ai dám tự phê bình, tự nhận
mình khuyết điểm, nhận kỷ luật đâu. Kiểm điểm rất nghiêm túc, nhưng xin
được rút kinh nghiệm, thế thôi” (16). Thủy, hỏa, đạo, tặc là bốn
đại họa trong cuộc sống, có sự tàn phá mạnh mẽ, cần được phòng chống
kiên quyết và khẩn trương. Chống giặc nội xâm là chống tặc, một vấn đề
cấp bách của xã hội như vậy mà ông còn khuyến cáo: “…kiên trì, làm đi làm lại như đánh răng rửa mặt hàng ngày, bình tĩnh thông cảm với cái chung” (16),
khác nào ông thú nhận Bộ Chính trị đang ở trong tình trạng bất khả
kháng trước vấn đề nghiêm trọng này. Để đánh răng rửa mặt sạch cần phải
đứng trước gương. Khi đã toàn trị đảng trở nên tự cao, ngạo mạn, tự coi
mình “vĩ đại như biển rộng, như núi cao” (Hồ Chí
Minh), nên đảng vệ sinh cá nhân không theo qui trình như vậy, đảng đâu
có thích nghe những lời góp ý, phê bình và phản biện, bởi “Ai chê là thấy khó chịu rồi! Con người là thế, một tổ chức cũng vậy” (16).
Và như lời ông thì người dân nên chịu
đựng “ngứa ghẻ” cho đến khi đảng tìm được phương thuốc đặc hiệu, bởi
đảng hiện nay có các ban bệ đầy đủ với các chức năng tham mưu “mà cũng đã mất nhiều công sức cho công việc khó khăn vất vả này, nhưng kết quả vẫn còn rất hạn chế” (17).
Tiếp xúc với cử tri là để hiểu sâu thêm những khúc mắc, cũng như tâm tư
nguyện vọng của của người dân để đảng có đường lối chính sách phù hợp
thực tiễn chứ đâu phải là cuộc họp chi bộ, họp đảng ủy để ông chất vấn
đồng chí của ông: “Mỗi người chúng ta có cái gì suy thoái không? Có
tự diễn biến, tự chuyển hóa không? Có tham nhũng không? Có thích chức
quyền không? Có thích khen không?” (16), để rồi bao biện cho những thói hư tật xấu đang có trong đảng của ông.
Ngày 30.10.2016, ông Trọng đã ký ban
hành Nghị quyết số 04-NQ/TW, nội dung nghị quyết này là bằng chứng về sự
tha hóa quyền lực ở đảng viên có chức quyền và phản bác lại các kết quả
được thổi phồng của các phương tiện truyền thông lề phải về việc thực
hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
hơn chục năm qua, cũng như sự phân hóa trong nội bộ đảng qua cụm từ “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Thực tế đã chứng minh, những bộ óc siêu
việt của đảng đã từng làm việc quan liêu, giáo điều và duy ý chí cho nên
đường lối của đảng không phải lúc nào cũng sáng suốt và đúng đắn, điển
hình như đường lối của đại hội đảng toàn quốc lần IV. Nhưng ban lãnh đạo
đảng luôn yêu cầu toàn đảng, toàn dân, toàn quân phải chấp hành nghiêm
chỉnh đường lối chính sách của đảng và nhà nước, vì vậy khi đường lối
được triển khai cấp dưới chỉ được bàn biện pháp thực hiện. Do đó hiện
tượng “tự diễn biến” không phải bây giờ mới xảy ra. Một trong số các
trường hợp đó là ông Kim Ngọc (1917-1979) nguyên bí thư tỉnh ủy Vĩnh
phú. Sáng kiến “khoán hộ” trong nông nghiệp của ông đã bắt buộc đảng
phải “tự chuyển hóa” mà ban hành “Nghị quyết 10 của bộ chính trị đảng
cộng sản Việt Nam năm 1988” đó sao. Bởi con người “tự diễn biến” này đã “đồng
cảm sâu sắc trước cảnh đói nghèo của người dân, cùng đau nỗi đau của họ
mà dám tháo bỏ những qui định mà thực tiễn đã chứng tỏ không phù hợp để
thúc đẩy phát triển. ” (Trương Đình Tuyển).
Ngày 09.12.2016 ông Trọng đã nhắc lại
lời Hồ Chí Minh về “một đảng hỏng“ trong Hội nghị của BCT với cán bộ
toàn quốc nhằm phổ biến quán triệt Nghị quyết Hội nghị TW 4 khóa 12.
Những nguyên nhân dẫn đến việc đảng hỏng hiện nay đã được các nhà trí
thức có uy tín, các cán bộ đảng cấp cao có tâm huyết nghiên cứu, phân
tích và đề xuất từ lâu, nhưng không hề nhận được hồi âm. Khi người ta
thường nhắc đến đạo đức, điều đó có nghĩa xã hội đang trong trạng thái
suy đồi, tình hình hiện nay đúng là thế.
Như vậy dưới công tác xây dựng và lãnh
đạo đảng của ông Trọng, tình trạng thực tế của đảng toàn trị hiện nay
đang dần dần tiếp cận hiện trạng dẫn đến nguyên nhân sụp đổ của Liên xô
và khối Đông Âu trước đây, như ông đã phân tích, mổ xẻ chúng trong bài
viết của mình cách đây 25 năm, lúc ông còn là chuyên gia công tác xây
dựng đảng với vai trò là nhà khoa học xã hội: “người ta không chăm
lo củng cố các tổ chức đảng, không giữ vững các tổ chức và sinh hoạt
Đảng, xem nhẹ vấn đề lãnh đạo nhà nước thông qua các tổ chức Đảng làm
cho hệ thống của Đảng tan rã, kỷ luật lỏng lẻo, tổ chức Đảng không kiểm
tra, giám sát được đảng viên, sức chiến đấu của các cơ sở Đảng quá yếu”
rồi thì: “xem nhẹ vấn đề kỷ luật tập trung trong Đảng… dẫn đến sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội hiện thực và làm tan rã Đảng về mặt tư
tưởng” …“chính vì người ta hiểu sai và làm sai chủ nghĩa Mác-Lênin: sai
cả về thực hiện nguyên lý cơ bản, về vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng” (18). Để rồi dẫn đến “sự suy
thoái đạo đức, lối sống ở những đảng viên của Đảng khiến cho họ chỉ còn
biết chú trọng đến việc tranh giành địa vị, tham ô, hối lộ, lạm dụng
chức quyền, từ đó dẫn đến tình trạng xa rời quần chúng, làm mất đi niềm
tin và sự ủng hộ của quần chúng đối với Đảng” như đánh giá bổ xung và tổng kết của chungta.com (18).
Lịch sử thế giới đã chứng minh, giống
như các triều đại phong kiến trước đây, các chế độ độc tài ngày nay dù
tự phong thánh cho mình nhưng nếu không đáp ứng được quyền lợi của người
dân thì vẫn không thể đứng ngoài qui luật Thành-Trụ-Hoại-Diệt. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời gần 87 năm và đã cướp chính quyền hơn 71 năm,
giờ đây có lẽ số phận đã trao cho ông Trọng trọng trách đưa đảng toàn
trị của mình từ cuối giai đoạn ba, chuyển sang giai đoạn bốn của quy
luật này, nếu ông vẫn muốn tự coi mình có sứ mệnh của Don Quixote de la
Mancha.
Theo Anhbasam