Việt Nam, một thời thừa máu (FB Trần Trung Đạo)
Trong khi máu của nhiều triệu người Việt
trên cả hai miền Nam Bắc đổ xuống cho ý thức hệ CS và tham vọng của Mao
Trạch Đông, các quốc gia Đông Nam Á tận dụng thời gian và cơ hội để
phát triển kinh tế như TT Lý Quang Diệu thừa nhận.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, chữ “máu” không
đơn giản chỉ một bộ phận cơ thể hay “thiếu máu” không phải dùng để chỉ
một nguyên nhân ảnh hưởng đến sức khỏe như tại các nước khác mà còn khơi
dậy nỗi đau đã in sâu trong nhận thức con người.
Nhắc tới chuyện thiếu máu năm nay, không
thể quên có một thời Việt Nam dư thừa máu. Đâu cũng đều thấy máu. Máu
chảy đầy sông. Máu ngập ruộng đồng. Máu loang đường phố. Thừa đến nỗi,
máu của nhiều triệu người Việt đã đổ xuống không chỉ để thỏa mãn tham
vọng bành trướng của Mao và CS quốc tế mà còn giúp các quốc gia vùng
Đông Nam Á đang nghèo nàn bỗng trở nên giàu có.
James Macdonald trong tác phẩm When Globalization Fails: The Rise and Fall of Pax Americana,
nhắc lại câu nói của cố TT Singapore Lý Quang Diệu, chiến tranh Việt
Nam (đúng ra nên gọi “máu Việt Nam”) đã “giúp các quốc gia Đông Nam Á có
thêm thời gian” để nâng cao mức sống, bởi vì nếu không, “Đông Nam Á
chắc chắn đã lọt vào tay CS”. [1]
Đọc câu nói của cố TT Lý Quang Diệu và
tìm hiểu các diễn biến chính trị trong cuộc chiến Việt Nam sẽ thấy ngay
từ đầu cuộc chiến, nhiều triệu người Việt đã đổ máu một cách oan uổng
cho ý thức hệ CS và bá quyền Trung Cộng chứ chẳng phải để “giải phóng
dân tộc” hay “thống nhất đất nước” như hệ thống tuyên truyền của đảng
nhồi nhét vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam từ 1945 đến nay.
Máu Việt Nam, tham vọng Mao Trạch Đông
Đảng CSVN không chế tạo được một khẩu
súng, một viên đạn, một túi lương khô nào nhưng có khả năng rút máu của
nhân dân Việt Nam để cung cấp cho tham vọng của Mao.
Stalin, trong buổi họp với Mao và Hồ Chí
Minh tại Moscow giữa tháng Hai, 1950 đã phó thác sinh mạng CSVN vào tay
Trung Cộng. Theo William J. Duiker trong Ho Chi Minh: A Life, Stalin
nói với Hồ Chí Minh tại Moscow “Từ bây giờ về sau, các đồng chí có
thể tin tưởng vào sự giúp đỡ của Liên Xô, đặc biệt hiện nay sau thời kỳ
chiến tranh, thặng dư của chúng tôi còn rất nhiều, và chúng tôi sẽ
chuyển đến các đồng chí qua ngã Trung Quốc. Tuy nhiên vì điều kiện thiên
nhiên, chính yếu vẫn là Trung Quốc sẽ giúp đỡ các đồng chí. Những gì
Trung Quốc thiếu chúng tôi sẽ cung cấp.” Tới phiên Mao, y cũng lần nữa xác định với Hồ “Bất cứ những gì Trung Quốc có mà Việt Nam cần, chúng tôi sẽ cung cấp.”
Từ đó, Mao sử dụng đảng CSVN như những
tay sai trung thành phục vụ cho lòng căm thù Mỹ của riêng y và bảo vệ
vùng an toàn phía nam của Trung Cộng. CSVN, cũng từ đó, hoàn toàn lệ
thuộc vào Trung Cộng, không chỉ phương tiện chiến tranh, kinh tế, quốc
phòng, hệ ý thức, cơ sở lý luận mà cả cách nói, cách ăn mặc, cách hôn
hít, chào hỏi.
Sự thù địch Mỹ trong lòng Mao bắt đầu từ
thời gian Mao còn ở Diên An khi tàn quân của Mao bị quân Tưởng Giới
Thạch bao vây và Mỹ lại công khai tuyên bố chỉ ủng hộ phe Tưởng. Lòng
thù hận dâng cao sau xung đột Eo Biển Đài Loan, và trầm trọng hơn, sau
chiến tranh Triều Tiên với gần 400 ngàn quân Trung Cộng bị giết, trong
số đó có Mao Ngạn Anh (Mao Anying), con trai trưởng và gần gũi nhất của
Mao. Đối với Mao kẻ thù số một là Mỹ. [2]
Mao chỉ thị toàn bộ bộ máy tuyên truyền
tại Trung Cộng phải chống Mỹ bằng mọi cách. Chống Mỹ từ xa, chống Mỹ ở
gần, chống Mỹ trong lý luận, chống Mỹ trong thực tế, chống Mỹ khi có mặt
Mỹ và chống Mỹ khi chưa có mặt Mỹ.
Theo lệnh Mao, trong hội nghị lần thứ
sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí
Minh và bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ “Hiện nay
đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ
thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta
đều nhằm chống đế quốc Mỹ”. [3]
Khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” được thai
nghén từ quan điểm và thời điểm này. Nhưng “nước” trong khẩu hiệu “Chống
Mỹ cứu nước” phải hiểu là nước Tàu chứ không phải nước Việt. Lý do,
trong thời điểm 17 tháng 7, 1954 chưa có một người lính hay một cố vấn
Mỹ nào ở miền Nam Việt Nam. Hôm đó, ngay cả hiệp định Geneva cũng còn
chưa ký.
Đọc cái tài liệu trong thời kỳ chống
Pháp để thấy Mao gần như đơn phương quyết định mọi hoạt động quân sự của
Việt Minh kể cả việc chọn ngày, chọn tháng cần phải chiếm cho được Điện
Biên Phủ. Theo Qiang Zhai, trong tác phẩm China and Vietnam war
1950-1975, Mao đã theo dõi một cách tường tận và chỉ thị một cách chi
tiết cho từng sư đoàn Việt Minh trong mặt trận Điện Biên Phủ. [4]
Người viết xin mở ngoặc ở đây. Điều đó
không có nghĩa những người Việt Nam đã hy sinh dù trong màu áo “Việt
Minh”, trên đường tấn công vào bản doanh của tướng de Castries là những
người đánh thuê cho Trung Cộng hay phục vụ một cách có ý thức cho chủ
trương nhuộm đỏ Việt Nam của CS Quốc Tế. Không. Họ không biết điều đó.
Đa số nông dân tay lấm chân bùn kia là những người Việt Nam yêu nước và
họ đã chết trong ước mơ một ngày Việt Nam sẽ thực sự là một nước tự do,
độc lập. Lòng yêu nước chân thành và trong sáng của họ sẽ không rơi vào
quên lãng.
Nhuộm máu miền Nam
Kiên trì với mục đích CS hóa Việt Nam đề
ra từ 1930, vào tháng 5, 1959, Ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động
sau khi biết rằng việc chiến miền Nam bằng phương tiện chính trị không
thành, đã quyết định chiếm miền Nam bằng võ lực dù phải “đốt cháy cả dãy
Trường Sơn”.
Giáo sư Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ
Khoa học công nghệ của CSVN trong bài viết Đã Đến Lúc Cần Phải Đối Thoại
đăng trên mạng Bauxit Viet Nam hôm 23/08/2016 cũng thừa nhận nguyên
nhân sâu xa của thực trạng bi thảm tại Việt Nam hiện nay phát xuất từ lý
do ý thức hệ: “Nguyên nhân gốc rễ của mọi ý kiến bất đồng, mọi bức
xúc và phẫn uất đều nằm trong những điều bất cập, phản khoa học, phản
tiến bộ, phản dân chủ của Cương lĩnh đảng CSVN và Hiến pháp nước
CHXHCNVN”. [5]
Đảng CSVN từ ngày thành lập 3 tháng 2,
1930 đến nay đã có cả thảy 4 cương lĩnh đảng, gồm 3 cương lĩnh về “cách
mạng dân tộc dân chủ” và 1 Cương lĩnh “về thời kỳ đổi mới, xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nội dung có thay đổi trong mỗi
thời kỳ nhưng mục tiêu tối hậu vẫn không thay đổi như Nguyễn Thanh Tâm
thuộc Viện Lịch sử Đảng khẳng định: “chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đó là mục
đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam.”[6]
Người viết cám ơn Gs Chu Hảo cuối cùng
đã thấy ra điều đó. Rất tiếc giải pháp giáo sư đưa ra lại là “đối
thoại”, một giải pháp không đúng với lý luận lẫn thực tế chính trị như
đã diễn ra tại các quốc gia cựu CS Đông Âu và Liên Xô.
Từ ngày thành lập tại Hong Kong năm
1930, dù hoạt động dưới nhiều danh xưng (đảng Cộng sản Đông Dương, Hội
nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, đảng Lao động Việt Nam, đảng Nhân
dân Cách mạng ở miền Nam, đảng Cộng sản Việt Nam) nhưng đảng luôn kiên
trì và hoàn toàn nhất quán về mục đích nhuộm đỏ Việt Nam.
Máu Việt Nam giúp các nước Đông Nam Á có cơ hội làm giàu
Trong khi máu của nhiều triệu người Việt
trên cả hai miền Nam Bắc đổ xuống cho ý thức hệ CS và tham vọng của Mao
Trạch Đông, các quốc gia Đông Nam Á tận dụng thời gian và cơ hội để
phát triển kinh tế như TT Lý Quang Diệu thừa nhận.
Lấy thời điểm 1965 khi chiến tranh Việt
Nam gia tăng cường độ, nền kinh tế Singapore tính theo GDP theo đầu
người chỉ vào khoảng 500 đô la, tương đương với Mexico và Nam Phi. Năm
2015, GDP theo đầu người của Singapore lên đến 56 ngàn đô la, ngang với
Đức.
Phát triển nhanh không kém với Singapore
là Nam Hàn. Trong thập niên từ 1950 đến 1960 Nam Hàn là quốc gia nghèo
nhất thế giới, nghèo hơn cả Nam Việt Nam, Bolivia và Mozambique, nhưng
ngày nay, quốc gia này giàu hơn cả Tây Ban Nha và New Zealand. [7]
Các quốc gia khác trong vùng từ Thái Lan
đến Nam Dương, Mã Lai đều phát triển nhanh chóng trong thời kỳ chiến
tranh Việt Nam nhờ chính sách đầu tư rộng rãi của Mỹ để lấy lòng đồng
minh nhằm bao vây và ngăn chận CS lan tràn.
Mọi việc đều có nguyên nhân
Mùa Giáng Sinh vừa rồi, giáo sư Tương
Lai trong bài viết Nhớ Lại Mùa Giáng Sinh B-52 đăng trên nhiều báo trong
nước vẫn tiếp tục một giọng điệu tuyên truyền đã được đảng lặp đi lặp
lại hơn 40 năm qua: “Hiểu thêm những điều này để càng thấy rõ xương
máu của các chiến sĩ và nhân dân ta trong một cuộc chiến không cân sức
giữa biết bao những toan tính lợi ích của các nước lớn là đau đớn và uất
hận đến thế nào cho thân phận một nước nhỏ trong trùng điệp những mưu
mô được khoác ra ngoài những tấm áo sặc sỡ! “ [8]
Thưa giáo sư, mọi việc trên đời đều có nguyên nhân.
Nếu chịu lắng lòng và suy nghĩ, ông sẽ
truy ra được nguồn gốc của chiến tranh Việt Nam. Tại sao Mỹ không ném
bom hay can thiệp vào nội bộ Senegal, Tunisia, Morocco hay hàng trăm
thuộc địa khác của Pháp mà chỉ can thiệp vào thuộc địa Việt Nam?
Ngay cả trong cuộc chiến tranh giành độc
lập đẫm máu của Algeria chống thực dân Pháp, dù là đồng minh lâu năm
với lãnh tụ Pháp de Gaulle, Mỹ đã công khai bày tỏ cảm tình với lý tưởng
độc lập, tự do của nhân dân Algiera và xem xung đột Algeria là chuyện
nội bộ của Pháp. [9]
Sau Thế chiến Thứ hai Mỹ chủ trương giải
thực nhưng sự đe dọa của Trung Cộng và CSVN đã làm Mỹ thay đổi chính
sách đối với Á Châu. TT Richard Nixon thừa nhận việc Mỹ đã đổ nhiều trăm
triệu đô la giúp Pháp chỉ với mục đích duy nhất là ngăn chận làn sóng
đỏ CS từ Bắc Kinh xuống Đông Nam Á qua ngã Hà Nội. Sau khi Pháp rút, Mỹ
đã cố gắng hết sức trong nhiều năm để bảo vệ miền Nam.
Nếu chịu lắng lòng và đọc lại các sử
liệu quốc tế, ông cũng biết, trong suốt cuộc chiến Việt Nam, Mỹ không hề
chủ trương đổ bộ lên Hải Phòng như đã từng đổ bộ Incheon tháng 9, 1950
để mở đường tấn công Bắc Hàn. Miền Nam trong hai thời kỳ đệ nhất và đệ
nhị cộng hòa cũng không có ý định chiếm đoạt lãnh thổ miền Bắc hay lật
đổ cơ chế CS miền Bắc. Sau gần một trăm năm chịu đựng không biết bao
nhiêu đau khổ dưới ách thực dân, mục đích của nhân dân miền Nam là có
được cơm no, áo ấm, có được cuộc sống tự do và xây dựng miền Nam thành
một nước cộng hòa hiện đại.
Sau Thế chiến Thứ hai, phong trào giải
thực được phát động từ Á sang Phi. Phần lớn các dân tộc bị trị đã giành
lại nền tự chủ bằng các cuộc vận động hòa bình hay được trao trả quyền
độc lập, riêng Việt Nam thì không. Việt Nam tiếp tục chìm sâu trong biển
máu ý thức hệ cho đến 1975 và rồi tiếp tục chịu đựng nghèo nàn, độc
tài, lạc hậu cho đến hôm nay.
Không cần phải một giáo sư mà một người
bình thường cũng biết chính cơ chế chính trị, kinh tế và văn hóa độc
quyền cộng sản hiện nay là nguyên nhân tạo ra tình trạng chậm tiến của
đất nước, và do đó cần phải được tháo gỡ càng nhanh càng tốt, càng sớm
càng tốt. Đừng tiếc nuối.
Trần Trung Đạo