Cách ứng xử nào cho Biển Đông? (Dương Danh Huy-BBC)
"Ủng hộ" ở đây không có 
nghĩa Việt Nam dựa vào Mỹ, không có nghĩa Mỹ hy sinh xương máu cho Việt 
Nam. Do đó các luận điểm của TS Trần Công Trục như dựa vào Mỹ để chống 
Trung Quốc có thể sẽ trả giá đắt, Mỹ không sẵn sàng hy sinh xương máu 
cho Việt Nam, không phải là phản biện về sự ủng hộ tôi nói đến. Cần lưu ý
 rằng "ủng hộ" đa dạng hơn và tế nhị hơn "hy sinh xương máu" rất nhiều, 
và sự ủng hộ phi xương máu có thể có hiệu quả hơn cả hy sinh xương máu.
Báo Giáo dục vừa đăng bài của TS Trần Công Trục bình luận về bài "Philippines phá hư thế trận Biển Đông" của tôi. Trong bài này, tôi sẽ bàn về những vấn đề hữu quan.
Đàm phán là không đủ
Trước
 hết, cần khẳng định rằng việc đàm phán với Trung Quốc tuy cần thiết 
nhưng không đủ cho việc bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền Việt Nam.
Thí
 dụ, do Trung Quốc khăng khăng rằng không tồn tại tranh chấp Hoàng Sa, 
không có cửa ngỏ cho việc đàm phán. Trong trường hợp này, Việt Nam cần 
phải đấu tranh. Như một thí dụ khác, khi Trung Quốc đòi quyền lợi bên 
trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trong những khu 
vực Nam Côn Sơn, Tư Chính, vv, vì đòi hỏi đó hoàn toàn vô lý, Việt Nam 
cũng không thể đàm phán. Trong trường hợp này, Việt Nam cần phải phải 
kháng cự.
Ngay cả đối với những vấn đề được đàm phán, Trung Quốc sẽ chèn ép 
Việt Nam và đàm phán có thể bị bế tắc, cho nên Việt Nam vẫn phải củng cố
 khả năng để kháng cự và đấu tranh vì có thể sẽ cần.
Do đó, dù có 
đàm phán hay tiến đến đàm phán trong một số lãnh vực, đối sách của Việt 
Nam không thể thiếu hai yếu tố kháng cự và đấu tranh. Đấu tranh và kháng
 cự không phải là duy ý chí hay không biết người biết ta, mà là vì sự 
ngang ngược của Trung Quốc không để cho Việt Nam lựa chọn nào khác nếu 
muốn bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền.
Cần sự ủng hộ của thế giới
Với tương quan thực lực Việt Nam-Trung Quốc, Việt Nam cần tăng cường và bổ sung cho khả năng kháng cự và đấu tranh bằng cách tranh thủ sự ủng hộ của thế giới, và đặc biệt là của Mỹ.
"Ủng hộ" ở đây không có 
nghĩa Việt Nam dựa vào Mỹ, không có nghĩa Mỹ hy sinh xương máu cho Việt 
Nam. Do đó các luận điểm của TS Trần Công Trục như dựa vào Mỹ để chống 
Trung Quốc có thể sẽ trả giá đắt, Mỹ không sẵn sàng hy sinh xương máu 
cho Việt Nam, không phải là phản biện về sự ủng hộ tôi nói đến. Cần lưu ý
 rằng "ủng hộ" đa dạng hơn và tế nhị hơn "hy sinh xương máu" rất nhiều, 
và sự ủng hộ phi xương máu có thể có hiệu quả hơn cả hy sinh xương máu.
Không
 nên xem vấn đề là dựa vào Mỹ để chống Trung Quốc, vì vấn đề là tận dụng
 yếu tố quốc tế và Mỹ nhằm bổ xung cho khả năng tự vệ.
Cũng cần 
lưu ý rằng Trung Quốc ráo riết tranh thủ sự ủng hộ của thế giới. Nếu đến
 việc tranh thủ sự ủng hộ của thế giới mà Việt Nam còn quan ngại rằng nó
 sẽ "tạo cho Trung Quốc cái cớ để độc chiếm Biển Đông", thì điều đáng 
quan ngại chính là Việt Nam sẽ ngày càng mất thêm vì quá thụ động.
Tất
 nhiên nếu các nước nhỏ trong tranh chấp có cùng một quan điểm trong 
việc tranh thủ sự ủng hộ của thế giới thì sẽ hữu hiệu hơn trống đánh 
xuôi kèn thổi ngược.
Cần gác mâu thuẫn để đoàn kết
TS
 Trục cho rằng khả năng tạo lập thế trận đoàn kết giữa các nước nhỏ 
trong bối cảnh hiện nay là không cao. Tất nhiên hiện nay khả năng này là
 không cao. Tôi đã nói rằng thế trận đó đã bị phá hư từ khi còn phôi 
thai.
Nhưng nỗ lực và các thành tích của Việt Nam và Philippines 
trong việc xây dựng sự đoàn kết trong những năm qua cho thấy trên nguyên
 tắc việc đó là khả thi. Dù là hai nước Đông Nam Á có mâu thuẫn lớn nhất
 ở Trường Sa, Việt Nam và Philippines đã là hai nước đoàn kết nhất. Dù 
Việt Nam và Malaysia cũng có mâu thuẫn về Trường Sa, việc hai nước nộp 
đệ trình chung về thềm lục địa lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa UNCLOS 
cũng cho thấy trên nguyên tắc việc xây dựng sự đoàn kết là khả thi.
Ngoài
 ra, luận điểm "giữ gìn hòa bình và ổn định cho Biển Đông" không phải là
 hợp lý để phản biện chủ trương xây dựng sự đoàn kết đó. Khó cho rằng 
những nỗ lực như trên không phải là giữ gìn hòa bình và ổn định trong 
cho Biển Đông.  
Giữ gìn hòa bình và ổn định?
Không người Việt nào không muốn hòa bình và ổn định cho Biển Đông, 
nhưng vấn đề là Trung Quốc có chủ trương phá vỡ chúng, và chúng ta nên 
làm gì để phòng chống. Khả năng Trung Quốc manh động sẽ cao hơn nếu các 
nước nhỏ trong tranh chấp không đoàn kết dựa trên một nền tảng chung nào
 đó, và nếu thế giới không có nhiều quan tâm đến Biển Đông. Trước một 
Trung Quốc muốn xâm lấn, việc Việt Nam bổ xung cho khả năng kháng cự 
bằng cách vận động sự ủng hộ của thế giới chính là giữ gìn hòa bình và 
ổn định.
Ngoài ra, cần cân bằng luận điểm của TS TC Trục về giảm 
tối đa việc "tạo ra những cái cớ Trung Quốc mong muốn [để manh động]" 
bằng truyện Sói và Cừu của La Fontaine. Sói không cần cừu tạo ra những 
cái cớ; cừu có giảm tối đa việc "tạo ra những cái cớ" cũng vẫn chết dưới
 tay sói. Trung Quốc bắt thiết bị ngầm của Mỹ, xây đảo nhân tạo, đặt 
giàn khoan HD 981, cắt cáp tàu Bình Minh và Viking, đuổi ExxonMobil và 
BP, chiếm đá Vành Khăn, ký hợp đồng với Crestone về bãi Tư Chính, chiếm 
những đảo ở Trường Sa, chiếm Hoàng Sa, có cần nước nào tạo ra những cái 
cớ?
Phán quyết Trọng tài
TS 
Trần Công Trục phản biện rằng tuyệt đối hóa vai trò của Phán quyết,
 xem nó như chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề, là không 
phù hợp với thực tế. Nhưng điều tôi nói là phán quyết là cơ hội vàng cho
 các nước nhỏ trong tranh chấp, và điều đó khác với "tuyệt đối hóa" hay 
"chìa khóa vạn năng".
TS Trục cho rằng vấn đề kế tiếp và quan 
trọng nhất là làm thế nào để thực hiện được Phán quyết, và ông trả lời 
rằng gác phán quyết sang một bên để đối thoại và đàm phán là phù hợp hơn
 cả.
Nhưng sẽ ngây thơ nếu tin rằng đối thoại và đàm phán có thể 
dẫn đến việc thực hiện được Phán quyết. Nếu trong trong tranh chấp và 
đàm phán Trung Quốc tung ra hành động và yêu sách đi ngược với phán 
quyết thì Philippines và Việt Nam phải làm gì? Sẽ chấp nhận một phần yêu
 sách của họ? Không thể được. Sẽ thuyết phục được họ từ bỏ yêu sách và 
chấm dứt hành động, không tái phạm? Không khả thi.
Do đó, chúng ta
 không nên nghĩ về Phán quyết như một mục đích, kiểu "làm sao để thực 
hiện được nó". Thay vào đó, nên nghĩ về nó như một phương tiện, kiểu 
"làm sao để vận dụng nó để hỗ trợ công cuộc phòng chống những bước xâm 
lấn kế tiếp từ Trung Quốc". Nếu gác Phán quyết sang một bên thì đó là 
gác sang một bên một phương tiện có lợi cho Philippines, Việt Nam, 
Malaysia, Brunei và Indonesia.
Tất nhiên Philippines không hủy bỏ 
Phán quyết, nhưng vấn đề là khi đến ngày nào đó họ đem nó ra đặt vấn đề 
với Trung Quốc và để kêu gọi sự ủng hộ của thế giới thì lúc đó có thể 
không còn thời cơ nữa.  
Cách ứng xử của Duterte
TS
 Trục cho rằng ông Duterte "đã rất khéo léo nếu không muốn nói là 'tinh 
quái' trong ứng xử với hai siêu cường Mỹ-Trung để "tối đa hóa lợi ích 
cho đất nước". 
Tôi nghĩ không thể cho cách ông Duterte ứng xử với
 Mỹ là khéo léo hay tinh quái. Không nước nào muốn trung lập giữa hai 
siêu cường lại ứng xử như thế. Ông Duterte cũng khó có thể "tinh quái" 
đủ để "chơi trên" Trung Quốc và Mỹ.
Về ông có tối đa hóa lợi ích cho Philippines hay không, tôi xin trích lời cựu Ngoại trưởng Philippines Abert del Rosario:
"Sự
 thay đổi trong chính sách ngoại giao mà [Tổng thống Duterte] tuyên bố, 
bỏ qua một bên một đồng minh lâu đời và đáng tin cậy để ôm lấy một cách 
hấp tấp một nước láng giềng hung hăng vốn bác bỏ luật quốc tế một cách 
kịch liệt, vừa không khôn ngoan, vừa không thể hiểu được."
Ông cũng cho rằng:
"Hiện
 nay chúng ta có vẻ như đang trên đường đi đến việc từ bỏ những thắng 
lợi mà chúng ta đã đạt được [trong Phán quyết] cho lợi ích của nhân dân 
chúng ta."
Ngay cả cựu Tổng thống Fidel Ramos, người được ông Duterte chọn làm sứ giả đặc biệt với Trung Quốc, đã hỏi:
"Chẳng
 lẽ chúng ta vứt bỏ một cách dễ dàng như thế hàng chục năm là đối tác 
quân sự [với Mỹ], sự thành thạo chiến thuật, vũ khí tương thích, hậu cần
 đáng tin cậy, tình đồng đội giữa những người lính [Mỹ và Philippines]? 
Tổng thống Duterte nói thì chúng ta làm?"
Ông còn viết trên báo rằng ông Duterte "tự bắn súng vào miệng mình và
 vào cả miệng tất cả chúng ta, 101.5 triệu người Philippines".
Khi
 tôi đưa ra quan điểm cho rằng cách ứng xử của ông Duterte là quy phục 
Trung Quốc, và nếu Việt Nam theo cách ứng xử đó thì cũng là quy phục 
Trung Quốc, TS Trục phản biện bằng cách nhắc về cách ứng xử của vua Trần
 Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông với nhà Nguyên. 
Nhưng cách ứng 
xử như của ông Duterte rất khác với cách ứng xử của hai vị vua này cho 
nên, theo ý tôi, không thể dùng cách của họ để biện minh cho cách như 
của ông.
Tương tự, dù có khi đối sách của Việt Nam được ví với của
 hai vị vua này, lãnh đạo và các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cần 
luôn luôn tự xét xem trong tranh chấp Biển Đông khả năng lèo lái của họ 
có giống của vua Tự Đức hơn không.
Bài phản ánh quan điểm và văn phong của tác giả, nhà nghiên cứu hiện sống tại Anh quốc.