Vận động quần chúng : Vượt qua một âu lo không cần thiết (Kỷ Nguyên)


Có một ý kiến trong những người đấu tranh cho dân chủ mà thi thoảng được gợi lại và bày tỏ, là lực lượng dân chủ còn yếu nên chưa thể vận động được quần chúng. Băn khoăn này thật ra là một sự tiến bộ so với trước đây vì ít ra nhiều người đã thấy được con đường để đánh bại chế độ cộng sản để đi tới thắng lợi dân chủ, khác hoàn toàn so với trước đây khi từng có lúc nhiều người bi quan cho rằng chế độ cộng sản này mạnh quá, khó mà sụp đổ được.

Một cuộc cách mạng dân chủ chỉ thật sự thành công khi thành quả mà nó mang lại là để hướng về tương lai, nơi mà dân tộc Việt Nam cần được tiếp bước bằng sự hàn gắn chứ không phải những đổ vỡ.

Nhận định trên có thể hiểu là nằm ở hai vấn đề : một là lực lượng dân chủ còn yếu vì số lượng ít ; hai là sự kỳ vọng vào khả năng vận động quần chúng nổi dậy để cuộc cách mạng dân chủ được thành công. Lo lắng về hai vấn đề như vậy là đúng nhưng đôi khi vì được đưa ra trong những bối cảnh không còn phù hợp, không những vậy còn thiếu chiều sâu trong cách diễn giải vấn đề nên rất dễ đưa đến hiểu lầm và tạo ra tâm lý bi quan không đáng có.

Nét đậm của đất nước hiện nay là chế độ cộng sản đang sụp đổ từ bên trong, đây là lúc chúng ta cần nhận định lại tương quan sức mạnh giữa hai bên - Lực lượng dân chủ và Đảng cộng sản - một cách thấu đáo để có được một cái nhìn cốt lõi hơn. Cần nói ngay rằng, nhận định lại không phải là có cái nhìn khác so với trước đây về bản chất sức mạnh của phong trào dân chủ và về vấn đề vận động quần chúng, mà là xác nhận lại một điều đúng đắn nhưng đôi khi vì quá hiển nhiên nên chúng ta không ý thức được tầm quan trọng mang tính quyết định của nó.

Sức mạnh không nằm ở con số

Chứng kiến sự mục ruỗng của chế độ cộng sản dưới hình ảnh của một tổng bí thư như ông Tô Lâm, chắc hẳn sẽ không còn nhiều người nghi ngờ về sự cáo chung của chế độ cộng sản nữa, có chăng chỉ là một thái độ dè dặt. Thái độ thận trọng này có lý do. Trước hết là vì chế độ hiện vẫn đang tỏ ra rất hung bạo khi tiếp tục bắt giam nhiều người mà trong đó, có những người từ lâu đã không phát biểu hay có một hoạt động nào cả ; ngay cả Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên với lập trường hòa giải dân tộc và đấu tranh bất bạo động vẫn bị chế độ bắt giam ba thành viên dũng cảm là Trần Khắc Đức, Quách Gia Khang và Nguyễn Duy Niệm. Sau nữa là khi nhìn vào tương quan lực lượng, nhiều người sẽ nghĩ lực lượng dân chủ vì ít hơn nên đang ở thế yếu hơn so với Đảng cộng sản ; điều này không sai nhưng không hẳn là đúng.

Kiểm điểm lại phong trào đấu tranh cho dân chủ hiện nay, so với trước đây đúng là trầm lắng đi hẳn, nhưng đó không hẳn là dấu hiệu của sự suy yếu. Trong những giai đoạn sôi nổi nhất, có thời điểm mà số lượng các tổ chức, hội nhóm và lượng người đấu tranh lên đến con số hàng ngàn. Tuy vậy thì tuyệt đại đa số trong số đó đều có mẫu số chung là hoạt động bề nổi, cố gắng gây tiếng vang tối đa nhằm kích động quần chúng thay vì có một dự án chính trị và một chương trình hành động nghiêm túc. Kết quả tất nhiên là thất bại vì những tiếng nói đó không thống nhất, không ai nghe ai và rồi phong trào rơi vào tình trạng như hiện nay. Hậu quả lớn nhất của sự thất bại đó là đã khiến quần chúng chán nản và mất phương hướng.

Sự trầm lắng của phong trào hiện nay, tuy vậy mà lại là một điều tốt, bởi đây là cơ hội để những tiếng nói đúng đắn và nghiêm túc được lắng nghe thay vì bị gạt ra ngoài giữa những sự nhốn nháo như trước đây. Điều này rất quan trọng, vì khi ý kiến và quan điểm đúng được lắng nghe thì tự nó sẽ có sức mạnh, đó là sức mạnh của Lẽ phải.

Giữa lúc Châu Âu vẫn còn chìm đắm trong nền chính trị thần quyền Thiên chúa giáo ở thế kỷ 17, những ý kiến đúng đắn của số ít những nhà tư tưởng lớn đã mở đầu cho thời kỳ Khai sáng đưa nhân loại ra khỏi bóng tối để tiến vào kỷ nguyên văn minh thật sự. Những tiếng nói dũng cảm như Baruch Spinoza, Hugo Grotius hay John Locke có sức mạnh vì đó là những tiếng nói của Lẽ phải, tuy họ chỉ là số ít nhưng tư tưởng của họ đại diện cho khao khát của nhân loại được tiến về dân chủ và tự do.

Trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ trước sự cai trị của thực dân Anh, tiếng nói thể hiện sự bao dung của Mahatma Gandhi cùng phương pháp đấu tranh bất bạo động của ông đã nhận được sự hưởng ứng và ủng hộ của hàng triệu người. Gandhi đã thành công vì đã thuyết phục được quần chúng bằng ngôn ngữ tình cảm, người Ấn Độ đã giành được thắng lợi vì kiên trì với chọn lựa đúng đắn là giải pháp đấu tranh bất bạo động. Liên Hợp Quốc đã lấy ngày sinh của Mahatma Gandhi (ngày 2 tháng 10) làm Ngày Quốc tế Bất bạo động, một sự tôn vinh dành cho thành công của giải pháp đấu tranh ôn hòa và một tinh thần bao dung.

Từ hơn nửa thế kỷ qua, dân chủ cũng đã chứng tỏ là phương thức tổ chức xã hội hợp lý nhất, nó đã đưa nhiều dân tộc vươn lên cùng với sự tiến bộ về mọi mặt, nhất là nhân quyền. Trong khi đó các chế độ độc tài, nhất là độc tài cộng sản đã phơi bày sự độc hại và tội ác, đã đẩy nhiều dân tộc trong đó có dân tộc Việt Nam rơi vào cảnh nghèo đói và lạc hậu. Sự tiến bộ ngoạn mục của các phương tiện truyền thông đã phơi bày sự tồi dở của các chế độ độc tài cộng sản, nó cũng làm gia tốc sự hiểu biết của người dân với hệ luận là dân chủ đã trở thành đồng thuận chung của cả loài người.

Ngày nay, dân chủ không những đã thắng về lý thuyết mà còn đã thắng trên thực tế, phần lớn các nước trên thế giới đều đã có dân chủ. Sức mạnh của lực lượng dân chủ không thể hiện ở số lượng mà thể hiện ở những điều đúng đắn mà nó đại diện. Những người dân chủ chúng ta tuy chỉ là số ít, nhưng chúng ta có tiếng nói của Lẽ phải và vì vậy chúng ta có sức mạnh. Trái lại, Đảng cộng sản Việt Nam dù có gần 5 triệu đảng viên và hơn 50.000 cơ sở đảng nhưng họ chỉ là một tập thể yếu vì đã mất hết lý tưởng, họ sẽ tan rã trong một thời gian ngắn như diễn biến ở các nước hậu cộng sản đã chứng tỏ. Cha đẻ của Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng Cộng Sản Liên Xô đã từng có hơn 400.000 cơ sở đảng và gần 20 triệu đảng viên, đã từng tỏ ra rất mạnh mẽ và hung bạo nhưng khi chế độ sụp đổ thì mọi thứ đã tan biến chỉ trong vài ngày. Các Đảng cộng sản ở Đông Âu cũng chung một số phận tương tự.

Chế độ cộng sản đã tuyệt vọng

Sự cáo chung của chế độ cộng sản Việt Nam đang ở vào giai đoạn sau cùng, như nhiều lần anh em Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã nhận định [1]. Đảng cộng sản thật ra không mạnh, nó đã nhanh chóng chao đảo trong những năm 1980 sau khi được toàn quyền điều hành đất nước từ sau ngày 30/04/1975 để rồi làm mọi mặt của đời sống xã hội sụp đổ. Đảng cộng sản đã bắt buộc phải thay đổi vào năm 1986 với cái gọi là "Đổi Mới", trong đó, một mặt họ cởi trói một phần nền kinh tế và xã hội nhưng mặt khác họ tiếp tục giữ độc quyền về chính trị.

Chính sách Đổi Mới năm 1986 là một cố gắng thoát hiểm của Đảng cộng sản nhưng không phải vì họ muốn, mà là một bắt buộc vì xã hội đã thay đổi. Điều đáng nói là đối lập dân chủ khi đó chưa hình thành, người dân Việt Nam thiếu sự hướng dẫn nên vẫn chưa được biết một tương lai Việt Nam chung nào để có thể cùng hướng về. Chính vì vậy, trước sự chao đảo của chế độ cộng sản vào lúc đó đất nước đã không có một giải pháp thay thế nào khác, nên thay vì sụp đổ thì chế độ cộng sản đã tự chuyển mình để tồn tại.

Giờ đây, sau gần 40 năm thì một lần nữa bối cảnh Việt Nam đã tích lũy đủ những thay đổi để hình thành nên một trật tự văn hóa và xã hội mới, và trật tự mới này đang đặt chế độ cộng sản trước một áp lực lớn bắt buộc phải thay đổi. Chính ông tổng bí thư Tô Lâm khi chứng kiến sự bại hoại của chế độ cộng sản cũng đã nhận thấy cần phải "đổi mới thể chế, vì thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn" để có thể mở ra một "kỷ nguyên mới". Nhưng có lẽ vì nông cạn -và cũng không hề có ý định từ bỏ sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản trong khi chính nó là nguyên nhân- ông Tô Lâm cho rằng điểm nghẽn trong thể chế được chỉ ra là bộ máy hành chính cồng kềnh, quy trình thực thi rườm rà và một số lượng công chức lớn nhưng không hiệu quả.

Ông Tô Lâm nói rằng "thềm kỷ nguyên mới" là đầu năm 2026 với kỳ đại hội đảng lần thứ 14, đồng thời cũng là thời điểm đánh dấu cột mốc tròn 40 năm để nhắc lại năm Đổi Mới 1986 như lời khẳng định cho một sự thay đổi lớn. Tuy vậy thì lần này Đảng cộng sản cho thấy là họ sẽ không nhượng bộ về độc quyền chính trị, một điều mà họ còn giữ lại sau khi đã từ bỏ độc quyền về kinh tế cách đây 40 năm. Nhưng đây là một quyết định sai lầm. Sự thất bại nhanh chóng và thấy rõ của các chính sách như "tinh giản bộ máy, sáp nhập tỉnh thành, kinh tế tư nhân" đang khiến hình ảnh của chế độ cộng sản được thể hiện qua Tô Lâm trở nên lố bịch.

Chế độ cộng sản không những chao đảo mà còn đang lựa chọn bóng tối. Lịch sử đang sang trang vì chế độ cộng sản không còn lý do để tồn tại.

Hiểu đúng về vận động quần chúng

Như Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã trình bày trong dự án Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, vận động quần chúng là giai đoạn cuối cùng trong lộ trình đấu tranh gồm năm giai đoạn ; một lộ trình mà mọi cuộc đấu tranh cách mạng muốn thành công đều phải trải qua như lịch sử các nước đã chứng tỏ [2].

Khi đưa ra nhận định "lực lượng dân chủ còn yếu nên chưa thể vận động được quần chúng", kỳ vọng của chúng ta thường đặt vào quần chúng một vai trò mang tính quyết định, rằng quần chúng phải đứng lên để hưởng ứng thì mới đánh đổ được chế độ cộng sản để giành chính quyền. Sự hưởng ứng của quần chúng là mấu chốt vì chỉ có như vậy thì cuộc cách mạng dân chủ mới hoàn toàn thắng lợi, có sự chính đáng và có sức mạnh, nhưng quần chúng chỉ hưởng ứng khi xã hội đã đạt được một sự đồng thuận về một giải pháp thay thế cho chế độ hiện nay.

Kinh nghiệm ở nhiều nước trong đó có các nước cộng sản cho thấy là chế độ độc tài sẽ sụp đổ nếu áp lực xã hội đủ lớn dù không cần những cuộc biểu tình bộc phát, nghĩa là cuộc cách mạng dân chủ có thể giành thắng lợi với diễn tiến hòa bình thông qua áp lực từ xã hội. Chế độ cộng sản sẽ buộc phải nhượng bộ -dù không muốn- và sẽ tham gia vào tiến trình dân chủ hóa nếu quần chúng cho thấy họ sẵn sàng để được động viên. Bởi vì khi chính quyền cộng sản Việt Nam bị đặt trước hai chọn lựa sống còn, hoặc là họ phải nhượng bộ để được an toàn hoặc đằng nào cũng sẽ bị lật đổ vì quần chúng đứng dậy, thì dù họ có hung hăn tới đâu cũng sẽ phải chọn giải pháp nhượng bộ. Như vậy, nỗ lực chính và cũng là cố gắng lớn nhất của những người dân chủ là đóng góp vào một cuộc vận động tư tưởng, để từ đó quần chúng đạt đến một sự đồng thuận về giải pháp thay thế.

Sự kiện quần chúng đồng loạt nổi dậy ở các nước như Sri Lanka năm 2022, Bangladesh năm 2024 hay như Nepal tháng 9 vừa qua là những bài học đáng để mọi người Việt Nam suy ngẫm. Có rất nhiều cuộc nổi dậy của người dân mà không hề có một lãnh đạo nào cả, đó là những cuộc nổi dậy bộc phát một cách dữ dội chỉ vì những mâu thuẫn và uất ức đã tích tụ quá lâu. Ngay cả những dân tộc hiền lành như Nepal vẫn đứng lên nếu tương lai của họ bị đe dọa nghiêm trọng.

Nhưng một cuộc cách mạng dân chủ chỉ thật sự thành công khi thành quả mà nó mang lại là để hướng về tương lai, nơi mà dân tộc Việt Nam cần được tiếp bước bằng sự hàn gắn chứ không phải những đổ vỡ. Hơn lúc nào hết, thời điểm bây giờ là lúc mà chúng ta cần ý thức về vai trò của mình trong việc hướng dẫn quần chúng để không những cùng có chung tiếng nói mà còn là những tiếng nói đúng đắn, ôn hòa ; đó là kêu gọi tình dân tộc nghĩa đồng bào, xây dựng hòa giải và hòa hợp dân tộc. Sự đồng thuận đó mới thật sự là vì tương lai Việt Nam. Có được tiếng nói đồng thuận đó thì chế độ sẽ phải đầu hàng trước cả khi quần chúng kịp đứng lên. Đây sẽ là kịch bản tốt nhất mà cuộc cách mạng dân chủ nên và cần phải đạt được, vì thắng lợi sẽ rất vẻ vang do rủi ro của bạo loạn đã được kiểm soát.

Trong một tiếng nói chung

Một điều đáng mừng là hiện nay không còn một tổ chức đối lập nào và cũng không còn ai kêu gọi đấu tranh bằng bạo lực nữa, đây là một thành quả rất lớn vì chúng ta đã có một bước ngoặt vô cùng quan trọng để có thể đi đến đoạn tuyệt với quán tính bạo lực - nguyên nhân gây ra những sai lầm, đau khổ và thảm kịch. Vũ khí duy nhất của lực lượng dân chủ là ngôn ngữ lịch thiệp, và nó đã rất hiệu nghiệm khi chúng ta đã buộc chế độ cộng sản phải tham gia vào mặt trận truyền thông.

Chúng ta cũng đang có một sự đồng thuận đang ngày càng vững chắc khác là nước Việt Nam trong tương lai sẽ là một nước dân chủ đa nguyên, được xây dựng trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, bằng những biện pháp bất bạo động. Bằng chứng là tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc đã trở thành chủ đề thảo luận ngày càng nhiều trên các diễn đàn, đặc biệt là trong dịp kỷ niệm 30 tháng 4 vừa qua. Sự đồng thuận đó cũng sẽ giúp dân tộc Việt Nam thấy được một tương lai bao dung, xứng đáng khác để thay thế chế độ cộng sản hiện nay.

Như vậy, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để lạc quan rằng, dân tộc Việt Nam đang đi đúng hướng trong cuộc cách mạng dân chủ với một sự đồng thuận lớn về tư tưởng trong khi những khuynh hướng và tư tưởng cực đoan đã yếu thế và bị loại bỏ. Nỗ lực còn lại là những người dân chủ phải tự tin để có thể công khai và dõng dạc chia sẻ những quan điểm đúng đắn đó đến với quần chúng nhân dân, để quần chúng hiểu rằng đó là đồng thuận chung của cả phong trào và đó cũng là tiếng nói của họ. Lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc Việt Nam không những có một đồng thuận chung mà còn là một đồng thuận đúng đắn về một tương lai dân chủ, đã hiểu được phúc lợi của dân chủ và phẩm giá của chính mình.

Thời điểm hiện nay đã rất cấp bách, nhưng với một tin vui rằng hành trang dân chủ hóa đất nước không bắt đầu từ con số không. Trong suốt hơn 43 năm qua, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã chuẩn bị cho đất nước một dự án chính trị nghiêm túc và hoàn toàn khả thi. Dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai đã được cập nhật và tu chỉnh nhiều lần trước những thử thách và hy vọng đặt ra cho đất nước. Tiếp tay phổ biến dự án chính trị này là một cách chuyển tải những ước mơ về tương lai của chính mình và dân tộc để hội nhập vào dòng tiến hóa chung của thế giới tự do và tiến bộ.

Những nhận định và đề nghị của dự án chính trị trong Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai là sức mạnh lý luận để bác bỏ những luận điệu hàm hồ, bôi nhọ và chụp mũ của chế độ cộng sản về lập trường của Tập Hợp. Đó cũng là kim chỉ nam để xây dựng đồng thuận dân tộc trên lý tưởng dân chủ đa nguyên, đồng thời cũng đề ra những giải pháp thiết thực để giải quyết những bế tắc của chế độ cộng sản hiện nay trong tình anh em tìm lại : mọi người cùng nhìn nhau và bắt tay nhau làm lại đất nước.

Và một thái độ chung

Bối cảnh thế giới mà chúng ta đang sống đang vô cùng sôi động và phức tạp, nét đậm hiện nay là làn sóng dân chủ thứ tư vẫn đang tiếp tục trào dâng và tiến tới trong những đất nước được cai trị dưới sự độc đoán và bằng bạo lực. Những người dân không còn gì để mất đã vùng lên đòi hỏi dân chủ và quyền làm người. Các chế độ vừa sụp đổ ở Sri Lanka, Bangladesh hay Nepal đều là những chế độ độc tài có gốc gác cộng sản. Chúng ta đừng quá lo chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay vẫn còn khỏe mạnh và sẽ còn tồn tại lâu vì đó là một âu lo không còn cần thiết. Đảng cộng sản cầm quyền hiện nay đã quá chia rẽ, không ai còn nhường ai để nắm lấy quyền lãnh đạo đất nước, và đang dùng đủ mọi cách để loại trừ lẫn nhau. Điều chúng ta phải âu lo là những hậu quả do chế độ này để lại khi sụp đổ : loạn sứ quân, những phe nhóm bán đứng quyền lợi đất nước cho ngoại bang để được bảo vệ và tiếp tục cầm quyền. Chúng ta cần phải có những chuẩn bị cần thiết để kêu gọi sự thức tỉnh và hợp tác của những thành phần cán bộ, đảng viên "tự diễn biến", vận động những chính quyền địa phương mất định hướng để nhanh chóng xây dựng một đội ngũ nhân sự có trình độ dẫn đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên dân chủ và phúc lợi.

Chế độ cộng sản Việt Nam thật sự đã kéo dài quá lâu, sự ngoan cố và hung bạo của nó có lẽ đã ám ảnh nhiều người, cũng không ít người chỉ nghĩ đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản như là một thắng lợi sau cùng. Những điều này không đúng. Sự cáo chung của chế độ cộng sản là một bắt buộc lịch sử nhưng cứu cánh của cuộc cách mạng dân chủ phải là một nước Việt Nam dân chủ đa nguyên, bao dung và dành chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau cho tất cả mọi người, không phân biệt khuynh hướng chính trị nào hay quá khứ nào.

Kỷ nguyên thứ hai mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên muốn hướng đến là kỷ nguyên của lòng bao dung, của tình anh em tìm lại. Những khái niệm tự do và dân chủ mà dân tộc Việt Nam muốn chia sẻ chỉ thật sự có ý nghĩa khi được xây dựng bằng một tình cảm chân thành giữa những con người hiểu nhau và quý trọng nhau, xem nhau là đồng bào, cùng ngậm ngùi cho số phận của đất nước và đồng ý với nhau rằng dân tộc Việt Nam phải có một tương lai khác tốt đẹp và xứng đáng hơn dưới chế độ cộng sản hiện nay.

Chính vì vậy, trong giai đoạn chuyển tiếp về dân chủ, cố gắng lớn nhất và trọng tâm nhất của chúng ta là tôn vinh và xây dựng hòa giải và hòa hợp dân tộc. Và để có được hành trang cho cố gắng lớn lao đó, có hai điều mà ngay từ bây giờ chúng ta không được phép tiết kiệm : một thái độ lạc quan và một ngôn ngữ tình cảm.

Kỷ Nguyên

(25/11/2025)

Ghi chú :

[1] Loạt bài về sự cáo chung của chế độ cộng sản :

Nguyễn Gia Kiểng :

- "Phải rất cảnh giác trong năm nay", Thông Luận ngày 16/01/2024

- "Chuẩn bị cho sự cáo chung của chế độ cộng sản", Thông Luận ngày 16/02/2024

- "Chế dộ cộng sản đã đến lúc phải cáo chung", Thông luận ngày 28/03/2024

Trần Khánh Ân :

- "Sự cáo chung của chế độ cộng sản và lựa chọn sinh tồn", Thông Luận ngày 26/09/2025

- "Từ sự cáo chung của một ý thức hệ đến khúc quanh tất yếu của Việt Nam", Thông Luận ngày 12/11/2025

Kỷ Nguyên :

- "Chế độ cộng sản cáo chung và điều thật sự quan trọng", Thông Luận ngày 14/02/2025

Chu Tuấn Anh :

- "Chế độ cộng sản Việt Nam đi đến những ngày cuối cùng", Thông Luận ngày 15/11/2025

- "Đảng cộng sản Việt Nam đang trong tuyệt vọng", Thông Luận ngày 27/10/2025

[2] Dự án Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai : Chương VII : Đấu tranh thiết lập dân chủ đa nguyên