Cách Mạng Tháng 8-1945, khi đất nước mất trí (Nguyễn Gia Kiểng)
Cách Mạng Tháng 8 đã là một khúc rẽ bi đát trong lịch sử nước ta. Dân tộc ta đã mất trí. Khi Thế Chiến II chấm dứt chúng ta là một trong những quốc nhiều triển vọng nhất nhưng giữa hai con đường dẫn đến vườn hoa dân chủ và vũng lầy cộng sản chúng ta đã bị kéo vào vũng lầy.
Nguyễn Gia Kiểng
Chúng ta vừa kỷ niệm 80 năm Cách Mạng Tháng 8-1945. Đây là dịp để cùng đặt lại với nhau một câu hỏi lớn mà đáng lẽ đã phải được thảo luận thật sâu từ rất lâu rồi nhưng cho tới nay ngay cả các sử gia cũng chưa nhìn thấy rõ tầm quan trọng của nó và vì thế vẫn chưa đưa ra được một giải thích thuyết phục. Câu hỏi đó là tại sao Đảng Cộng Sản lại cướp được chính quyền một cách quá dễ dàng, gần như không gặp một cạnh tranh đáng kể nào? Sự kiện này đã là một trong những biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nước ta.
Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức được thành lập tháng 02/1930 tại Hồng Kông như là một thành viên của Quốc Tế Cộng Sản (hay Quốc Tế 3), một năm rưỡi sau khi Đại Hội 6 của Quốc Tế Cộng Sản tại Moskva năm 1928 đã khẳng định các đảng cộng sản chỉ có một tổ quốc duy nhất là Liên Bang Xô Viết. Đảng này nổi dậy lần đầu tiên tại Việt Nam năm sau, 1931, dưới danh xưng ‘Xô Viết Nghệ Tĩnh’ và khẩu hiệu ‘Vạn Tuế Xô Nga!’ không có gì là Việt Nam, cùng với một chủ trương man rợ không mảy may có một chút tình cảm dân tộc nào ‘trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ!’. Cuộc nổi loạn này đã bị đàn áp đẫm máu sau khi đã phạm những tội ác ghê rợn, đã giết rất nhiều người chỉ vì họ có học hay giầu có, hay là địa chủ hoặc chỉ vì có chút tiếng tăm, nói chung là những người thuộc thành phần tinh nhuệ. Năm 1945 nó có khoảng hai nghìn đảng viên trong đó tuyệt đại đa số chưa học xong tiểu học.
Một đảng như vậy – gồm một số ít ỏi những người phần lớn vô học đã phủ nhận tổ quốc Việt Nam và đã tàn sát rất nhiều người vô tội – bình thường không thể có một hy vọng nào, thậm chí không thể tiếp tục tồn tại. Tuy vậy nó đã cướp được chính quyền một cách dễ dàng, gần như không gặp một đối thủ đáng kể nào.
Tại sao?
Một số lý do đã được trình bày. Đó là vì nó đã khai thác được lòng căm thù giai cấp của quần chúng nghèo khổ đã tích lũy và dồn nén trong suốt dòng lịch sử, từ cả ngàn năm. Sự căm thù lại càng bùng nổ sau nạn đói đầu năm 1945 khiến gần hai triệu người chết. Đó cũng là vì nó là đảng duy nhất có phương tiện để hành động vì được Liên Xô viện trợ. Tuy vậy những lý do này chỉ là hậu quả của một lý do khác nền tảng hơn nhiều: Vào thời điểm Cách Mạng Tháng 8-1945 chúng ta hoàn toàn không có kiến thức và tư tưởng chính trị.
Nhìn lại một giai đoạn lịch sử rất lạ thường
Rất nhiều sách, sử cũng như hồi ký và biên khảo, đã được viết ra về giai đoạn Cách Mạng Tháng 8. Vô số sự kiện đã được tường thuật tỷ mỷ, nhưng có lẽ chính vì có quá nhiều chi tiết mà người ta khó nhận ra những nét chính để có được một cái nhìn tổng thể. Vậy đâu là những nét chính?
Lúc đó chúng ta đã có khá nhiều trí thức uyên bác, kể cả một số vị tốt nghiệp những trường đại học danh tiếng, nhưng trong những gì họ đã viết và nói không hề có dấu vết của một kiến thức chính trị hay một tư tưởng chính trị nào. Trí thức Việt Nam chỉ mê mải học để lấy bằng cấp chuyên môn -kể cả về luật và kinh tế- để có địa vị trong xã hội, hay học văn chương để làm thơ viết báo. Nhiều người còn hãnh diện nói rằng họ không thích chính trị như để chứng tỏ rằng mình là người trong sạch không màng công danh. Nói chung, vào thời điểm 1945 dù kiến thức đã có một bước nhảy vọt rất lớn, văn hóa nền tảng của trí thức Việt Nam vẫn chưa thay đổi. Trí thức Việt Nam vẫn là những kẻ sĩ mà ước mơ chỉ là đạt được những học vị cao để có được những địa vị lớn trong một chế độ có sẵn. Đất nước đang ra sao, đang đứng trước những thử thách và cơ hội nào, đang cần những định hướng và hành động nào v.v. không phải những câu hỏi mà họ đặt ra. Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng với cái chết dũng liệt của 13 liệt sĩ trên đoạn đầu đài Yên Bái năm 1930 và cuộc nổi dậy Xô Viết Nghệ Tĩnh năm sau đã chỉ được tiếp nối bởi một giai đoạn nở rộ của tiểu thuyết, thơ mới, nhạc trữ tình, tranh ấn tượng. Trí thức Việt Nam chìm đắm trong một làn sóng lãng mạn và không quan tâm tới những xáo trộn lớn của thế giới như sự thiết lập chế độ cộng sản tại Nga và sự phát triển của Quốc Tế Cộng Sản, sự trỗi dậy của các lực lượng quân phiệt Nhật, phát xít Ý, quốc xã Đức dẫn đến Thế Chiến II. Và gần như cả Thế Chiến II, dù Việt Nam đang bị cả hai đế quốc Pháp và Nhật chiếm đóng cùng một lúc. Phải nói vào thời điểm Cách Mạng Tháng 8-1945, khi Nhật đầu hàng và Thế Chiến II chấm dứt, nước ta tan rã trong hốt hoảng trước một tình thế mà nhân dân cũng như trí thức hoàn toàn không chuẩn bị để chờ đón. Hơn thế nữa phong trào lãng mạn nở rộ từ thập niên 1930 còn khiến trí thức Việt Nam sùng bái bạo lực 1. Trong một tình trạng như vậy những thảm kịch vô lý nhất cũng có thể xảy đến và thắng lợi của Đảng Cộng Sản đã dễ dàng dù nó chỉ là một đảng khủng bố nhỏ. Nó không gặp một đối thủ đúng nghĩa nào.
Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội là hai tổ chức tranh đấu giành độc lập được thành lập trong thập niên 1920. Bước sang thập niên 1930 chỉ còn lại Việt Nam Quốc Dân Đảng. Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội đã tan rã, phần lớn các thành viên đã ly khai để gia nhập Đảng Cộng Sản. Việt Nam Quốc Dân Đảng là tổ chức được thành lập bởi một nhóm thanh niên đầy nhiệt huyết và dũng cảm nhưng bồng bột. Họ thành lập đảng mà không có một tuyên ngôn hay dự án chính trị, chỉ có khẩu hiệu Tam Dân rập khuôn theo Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Họ chủ trương tranh đấu bằng bạo lực dù không có bạo lực và cũng không có kế hoạch để có phương tiện. Đảng đã tan rã sau cuộc khởi nghĩa tự sát năm 1930. Sự hy sinh anh dũng và phong cách hiên ngang của 13 liệt sĩ Yên Bái đã làm rúng động trái tim của cả nước nhưng cơ cấu lãnh đạo đã tan tành nên không khai thác được cảm tình rất lớn trong nhân dân. Đã thế còn bị truy lùng gắt gao. Việt Nam Quốc Dân Đảng lúc đó không còn là một tổ chức đúng nghĩa.

Hai nhân vật được coi là những lý thuyết gia xuất chúng nhất trong giai đoạn Thế Chiến II là Trương Tử Anh (Trương Kháng) và Lý Đông A (Nguyễn Hữu Thanh). Trương Tử Anh soạn ra chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn cho Đại Việt Quốc Dân Đảng, Lý Đông A viết ra chủ nghĩa Duy Dân cho Đại Việt Duy Dân. Cả hai chủ nghĩa này đều không có giá trị tư tưởng mà chỉ được viết ra trong niềm tin rằng phải có một chủ nghĩa mới thành lập được một đảng. Chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn, do Trương Tử Anh viết ra vào năm 1938 lúc đang là sinh viên trường luật Hà Nội ở tuổi 24, chủ yếu lấy lại một cách sơ sài một vài ý chính của chủ thuyết Không Gian Sinh Tồn (Lebensraum) được Hitler khai thác để phát triển đảng Quốc Xã Đức. Chủ nghĩa Duy Dân do Lý Đông A soạn ra ở tuổi 20, hoàn toàn không có giá trị lý luận hay kiến thức chính trị nào. Hai chủ nghĩa này được tôn vinh chủ yếu do nhân cách và sự dũng cảm của hai người chủ xướng. Cả hai ông đã bị Đảng Cộng Sản thủ tiêu trong đợt khủng bố tàn sát những người quốc gia ngay sau Cách Mạng Tháng 8, Trương Tử Anh năm 1946 ở tuổi 32, Lý Đông A năm 1947 khi mới 27 tuổi. Sự kiện hai chủ nghĩa này được coi là hai suy tư chính trị nổi bật nhất chứng tỏ sự trống rỗng của kiến thức và tư tưởng chính trị của Việt Nam vào thời điểm đó.
Hai đảng khác xuất hiện vào cuối thập niên 1930 là Đại Việt Quốc Xã và Đại Việt Dân Chính.
Đại Việt Quốc Xã do Nguyễn Xuân Tiếu thành lập và làm chủ tịch với Trần Trọng Kim làm tổng thư ký lấy đảng Quốc Xã Đức của Hitler làm gương mẫu và dựa trên sự giúp đỡ của quân Nhật. Trần Trọng Kim được Nhật chọn làm thủ tướng Nam Triều ngày 17/04/1945, hơn một tháng sau khi Nhật đảo chính xóa bỏ chính quyền thuộc địa Pháp, nhưng không đầy một tháng sau thì Đức đầu hàng -ngày 08/05/1945- và sự thất bại của Nhật trở thành hiển nhiên. Nội các Trần Trọng Kim -gồm toàn những nhân sĩ bằng cấp cao nhưng hoàn toàn không có kiến thức và kinh nghiệm chính trị- bị tê liệt, gần như chết lâm sàng; nhiều bộ trưởng hoảng sợ từ chức, những người khác không biết làm gì nữa. Nguyễn Xuân Tiếu biến mất, không ai biết ông ấy về sau ra sao. Trần Trọng Kim là một nhà giáo và một học giả có công soạn ra cuốn Việt Nam Sử Lược, bộ sử mạch lạc và đúng nghĩa đầu tiên của nước ta, nhưng cuốn hồi ký Một Cơn Gió Bụi của ông cũng như việc ông gia nhập Đại Việt Quốc Xã và chọn bản nhạc Đăng Đàn Cung làm quốc ca khi làm thủ tướng chứng tỏ ông không có một kiến thức chính trị đáng kể nào.
Đại Việt Dân Chính do Nguyễn Tường Tam, tức nhà văn Nhất Linh, và nhóm Tự Lực Văn Đoàn lập ra năm 1943 với một cương lĩnh rất sơ sài «một nửa phát xít, một nửa dân tộc» theo Nguyễn Tường Bách, em ruột Nguyễn Tường Tam và một trong những người chủ chốt của đảng.
Ba đảng Đại Việt Quốc Xã, Đại Việt Duy Dân và Đại Việt Dân Chính kết hợp với nhau lập ra Đại Việt Quốc Gia Liên Minh năm 1944, có lẽ với hy vọng được Nhật chọn làm chính phủ Việt Nam sau khi đảo chính hủy bỏ chính quyền thuộc địa Pháp nhưng không thành, rồi tan rã.
Nói chung các đảng phái lúc đó đều không có cơ cấu điều hành đúng nghĩa, cũng không có dự án chính trị và chương trình hành động, nên ngay cả nếu có nhiều đảng viên, như trường hợp Việt Nam Quốc Dân Đảng, cũng không hành động được; các đảng viên cũng không khác cảm tình viên. Trừ Việt Nam Quốc Dân Đảng các đảng đều vừa mới được thành lập bởi những người đầy thiện chí nhưng thiếu kiến thức và kinh nghiệm chính trị.
Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng bị Pháp đàn áp thẳng tay như Đảng Cộng Sản nhưng lại không còn lãnh đạo nên không thể lấy thái độ dứt khoát với Nhật để được chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch -lúc đó đang đứng trong phe Đồng Minh- yểm trợ. Trong khi đó Đảng Cộng Sản, vì theo Liên Xô, đã đứng hẳn về phe Đồng Minh nên được Liên Xô và cả Mỹ ủng hộ để lập những chiến khu tại biên giới Việt Trung và xây dựng lực lượng. Các đảng phái khác, kể cả Đại Việt Duy Dân của Lý Đông A, đã mù quáng chọn con đường Đức Quốc Xã mà chỉ cần một chút sáng suốt họ cũng phải thấy là vừa sai trái vừa tuyệt vọng bởi vì từ năm 1941 -khi cả Mỹ và Nga đã vào cuộc- sự thất bại của khối Trục đã quá hiển nhiên.
(Đến đây cũng xin mở một ngoặc đơn để nhắc lại một biến cố trong lịch sử thế giới đã có ảnh hưởng lớn lên nước ta. Đảng Cộng Sản đã rất đúng khi lập các chiến khu chống Nhật tại biên giới Việt Trung, nhưng đó không phải là một chọn lựa mà là một mệnh lệnh đối với họ. Họ đã chọn Liên Xô làm tổ quốc và cam kết bảo vệ Liên Xô trong Đại Hội 6 của Quốc Tế Cộng Sản năm 1928 như đã nói ở phần trên thì bắt buộc phải nhập cuộc cùng với Liên Xô, nhất là Liên Xô cũng là nguồn tài trợ duy nhất của họ vào lúc đó. Nên biết rằng Thế Chiến II đã chỉ xảy ra sau khi Stalin và Hitler ký thỏa ước hữu nghị bất tương xâm ngày 23/08/1939. Vì nhiều lý do năm 1941 Đức và Nga xóa bỏ thỏa ước này và lâm chiến. Nếu Liên Xô không lâm chiến với Quốc Xã Đức thì chắc chắn Đảng Cộng Sản Việt Nam đã không chống Nhật và lịch sử Việt Nam đã rất khác)
Phạm Quỳnh, bộ trưởng giáo dục từ 1932 đến 1942 rồi thủ tướng triều đình Huế từ 1942 đến 1945, đã có thể thay đổi được tình thế nhưng ông chỉ là một học giả. Ông đã có công phát huy chữ quốc ngữ và đem lại một vài tiến bộ về nhận thức văn hóa xã hội nhưng ông hoàn toàn không có khả năng của một cấp lãnh đạo chính trị. Mặt khác ông quá thân Pháp và cũng chỉ hài lòng với địa vị đã đạt được trong triều đình Nguyễn. Ông dứt khoát không phải là người của một tình thế khủng hoảng.
Còn các trí thức nhân sĩ khác? Đa số lo sợ, hoặc thụ động không biết phải làm gì và cũng không dám làm gì, một số người có tiếng tăm nhất ủng hộ Đảng Cộng Sản vì không hiểu chủ nghĩa cộng sản và cũng vì ngưỡng mộ bản chất khủng bố của nó.
Con người vô trách nhiệm và đáng trách nhất là Bảo Đại. Tôi may mắn được quen thân hai người rất gần gũi với Bảo Đại, ông đại sứ Ngô Đình Luyện được nuôi dạy cùng với ông Bảo Đại từ thời niên thiếu và ông luật sư Lê Văn Đức em họ hoàng hậu Nam Phương và tùy viên báo chí quốc tế của Bảo Đại, rồi Ngô Đình Diệm, rồi Nguyễn Văn Thiệu cho đến ngày 30/04/1975. Cả hai đều nói ông Bảo Đại rất thông minh và uyên bác nhưng không làm gì cả vì hoàn toàn không có ý chí và can đảm, chỉ ham ăn chơi. Bảo Đại lên ngôi năm 1932, lúc 19 tuổi, sau khi đã được đào tạo tại Pháp. Lúc đó tại Châu Âu cuộc thảo luận về chế độ thực dân đã ngã ngũ với kết luận dứt khoát là nó phải chấm dứt. Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne, tại chức từ năm 1925 đến 1928, cũng đã cảnh báo trí thức Việt Nam là phải chuẩn bị cho một tương lai độc lập. Bảo Đại đã có thể là một vị vua lý tưởng để chuẩn bị cho một nước Việt Nam độc lập và dân chủ dưới thể chế quân chủ lập hiến nhưng ông chỉ lo ăn chơi. Theo nhiều nhân chứng đêm 09/03/1945 khi Nhật đảo chính Pháp thì ông đang đi săn. Sau khi Đảng Cộng Sản cướp được chính quyền ngày 19/08 ông hoảng sợ và vội vã thoái vị. Sau này khi được phục hồi làm quốc trưởng Quốc Gia Việt Nam, từ năm 1948, trong lúc đất nước tơi bời trong chiến tranh, ông cũng chỉ vui chơi trong các sòng bài tại Pháp. Thật khó tưởng tượng một vị vua hay một quốc trưởng hèn nhát, vô lương tâm và vô trách nhiệm đến thế.
Tóm lại, phải bùi ngùi mà nhìn nhận rằng vào lúc Thế Chiến II kết thúc Đảng Cộng Sản, với chân dung được trình bày ở đầu bài này, đã cướp được chính quyền (cướp chính quyền là cụm từ của chính họ) bởi vì lúc đó chúng ta thiếu cả trí tuệ lẫn tinh thần dân tộc. Vì trí thức Việt Nam quá kém.
Sau đó và bây giờ
Không chỉ cướp được chính quyền trong Cách Mạng Tháng 8, Đảng Cộng Sản còn phát động được cuộc nội chiến kéo dài 30 năm và chiến thắng để áp đặt chế độ cộng sản lên cả nước rồi tiếp tục tồn tại cho đến nay mà chưa gặp một phản kháng có tầm vóc. Như thế thì phải nói rằng đất nước chưa thay đổi bao nhiêu sau những kinh nghiệm đau đớn. Một lý do quan trọng là Đảng Cộng Sản từ sau Cách Mạng Tháng 8 đã thi hành triệt để chính sách khủng bố đối với đối với các trí thức bị ngờ vực là có thể chống đối và đã gây thương tích nặng cho trí tuệ Việt Nam.
Lý do quan trọng hơn là văn hóa chính trị của chúng ta vẫn chưa thay đổi bao nhiêu.
Các chính quyền quốc gia thời Bảo Đại chỉ là sự tiếp nối của chế độ thuộc địa, lãnh đạo bởi những cựu viên chức thuộc địa. Ngô Đình Diệm sau khi truất phế Bảo Đại mới đầu đem lại hy vọng đổi mới nhưng rồi cũng nhanh chóng gây thất vọng. Ông Diệm cũng vẫn tin là phải có một chủ nghĩa và, theo ý kiến của Ngô Đình Nhu, đã cố đề cao chủ nghĩa Nhân Vị để thành lập Đảng Cần Lao Nhân Vị như một đảng cầm quyền mặc dù lý thuyết Nhân Vị của Emmanuel Mounier hoàn toàn không phải là một chủ nghĩa mà chỉ là những biện luận về con người và cộng đồng. Trên thực tế ông Diệm lãnh đạo đất nước như một nhà độc tài vụng về muốn được tôn vinh như một lãnh tụ anh minh tối cao. Sau khi ông Diệm bị lật đổ các tướng lĩnh hoàn toàn không có kiến thức chính trị. Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố ái mộ Hitler, Nguyễn Văn Thiệu liên tục than phiền là dân chủ tạo ra quá nhiều phức tạp. Trong suốt thời gian tồn tại của nó, phe quốc gia, Quốc Gia Việt Nam rồi Việt Nam Cộng Hòa, không có người lãnh đạo nào hiểu rằng cuộc Chiến Tranh Lạnh mà Việt Nam là một điểm nóng là cuộc đụng độ giữa độc tài và dân chủ, giữa tự do và cưỡng chế.
Sau ngày 30/04/1945 chế độ cộng sản đã phơi bày bản chất của nó làm nhiều người thức tỉnh. Các tiến bộ về thông tin cũng đã làm thay đổi cách suy nghĩ của rất nhiều người theo chiều hướng đúng, kiến thức chính trị đã phong phú hơn nhưng gánh nặng của di sản văn hóa vẫn còn khá lớn. Nó vẫn còn khiến nhiều người có thiện chí chưa đóng góp được cho cuộc vận động dân chủ như khả năng và điều kiện của họ cho phép. Một thí dụ là một số trí thức rất đáng quý vẫn còn tốn công sức đề cao chủ nghĩa Duy Dân hay chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn. Một số người đáng quý khác vẫn cố gắng phục hồi lại các đảng chính trị đã thuộc vào lịch sử. Những cố gắng đó chỉ có tác dụng đánh lạc nghị lực và sự chú ý của những người có thiện chí. Không ai có thể phủ nhận chí khí và sự dũng cảm vượt trội của Nguyễn Thái Học, Trương Tử Anh, Lý Đông A, và các anh hùng liệt sĩ khác vào thời đại của họ, nhưng tôn vinh họ không đồng nghĩa với phải tiếp tục làm và nghĩ như họ. Chúng ta đã tiến bộ khá nhiều nhưng chưa đủ.
Một trong những di sản văn hóa tai hại cần được cảnh giác chính là từ «chính trị». Đó là từ mà chúng ta tiếp nhận từ Trung Quốc để dịch từ politics trong tiếng Anh (hay politique trong tiếng Pháp). Politics có nghĩa là «việc nước» hay «việc chung của những người trong cùng một nước». Nó có gốc từ tiếng Hy Lạp politiká trong đó polis có nghĩa là quốc gia bởi vì vào thời đại Aristotle phát minh ra khái niệm politiká mỗi thành phố (polis) là một nước. Nó cũng bao hàm những thảo luận để đi đến những quyết định chung và những tổ chức để thực hiện những quyết định chung đó. Khi tiếp xúc với Phương Tây người Trung Quốc dịch politics là «chính trị» và gây hiểu lầm rằng đó là việc triều chính hay cai trị, nghĩa là việc vua quan, hay cụ thể hơn là sự tìm kiếm công danh trong chế độ quân chủ. Hậu quả của sự phiên dịch cẩu thả này là khiến nhiều người nói một cách hãnh diện rằng họ không thích chính trị, như để chứng tỏ họ là người cao thượng không màng công danh. Nếu ngay từ đầu chúng ta đã dịch politics là việc nước thì chắc khó có ai nói «tôi không thích viêc nước» mà không thấy ngượng. Ngày nay từ «chính trị» đã trở thành một từ quá thông dụng để có thể thay thế nhưng chúng ta cần hiểu nghĩa đúng của nó. Chính trị là việc chung, việc nước. Không quan tâm tới chính trị là ích kỷ và không yêu nước.
Hiểu chính trị là việc chung và việc nước sẽ giúp chúng ta hiểu rằng hoạt động chính trị là cố gắng tìm đến một đồng thuận về những vấn đề đang đặt ra cho đất nước trong bối cảnh thế giới, về những giải đáp và phương tiện và hành động cần có để đạt mục tiêu. Chúng ta sẽ hiểu đất nước có vô số vấn đề – thử thách cũng như hy vọng – trong mọi địa hạt và không một cá nhân hay một nhóm nhỏ nào có thể thấu hiểu được hết. Chúng ta sẽ thấy sự cần thiết của tổ chức như là môi trường sản xuất và sàng lọc các ý kiến đồng thời cũng là sức mạnh để hành động.
Nhìn về tương lai
Chúng ta cũng sẽ hiểu đất nước rất cần dân chủ và đấu tranh chính trị không bao giờ có thể là đấu tranh cá nhân cả mà chỉ có thể là đấu tranh có tổ chức. Chúng ta sẽ dứt khoát vất bỏ lối làm chính trị nhân sĩ tàn dư của văn hóa Khổng Giáo để đấu tranh cho dân chủ trong một tổ chức có một dự án chính trị đúng đắn cho đất nước. Cùng nhau chúng ta sẽ nhận ra rằng cuộc đấu tranh này không khó bởi vì chế độ cộng sản đã đến giờ chót của giai đoạn cuối của tiến trình cáo chung.
Cách Mạng Tháng 8 đã là một khúc rẽ bi đát trong lịch sử nước ta. Dân tộc ta đã mất trí. Khi Thế Chiến II chấm dứt chúng ta là một trong những quốc nhiều triển vọng nhất nhưng giữa hai con đường dẫn đến vườn hoa dân chủ và vũng lầy cộng sản chúng ta đã bị kéo vào vũng lầy. Dầu vậy chúng ta cần đủ sáng suốt để nhìn nhận rằng trách nhiệm chính không phải ở những người cộng sản. Lúc đó họ chỉ là những người vừa rất ít hiểu biết, những người vị thành niên về mặt chính trị, vừa là sản phẩm của một xã hội đã tích lũy quá nhiều và quá lâu những bất công và thù hận. Trách nhiệm chính là ở giới trí thức lúc đó đã không đảm nhiệm vai trò soi sáng và hướng dẫn quần chúng.
Đặc tính của mọi cuộc vận động dân chủ là chúng đều phải do trí thức lãnh đạo. Cuộc vận động dân chủ của chúng ta cũng sẽ không phải là một ngoại lệ và các trí thức Việt Nam không có tư cách gì để buộc tội bất cứ ai. Chính họ phải nhận lỗi trước lịch sử và cố gắng tận tình để hàn gắn những vết thương của dân tộc.
Hòa giải dân tộc tức khắc và trọn vẹn là điều kiện bắt buộc để mọi người Việt Nam nhìn lại nhau là anh em và bắt tay nhau cùng tiến về tương lai.
Nguyễn Gia Kiểng
(19/08/2025)