Cưỡng bức kinh tế và khủng hoảng niềm tin (Trần Khánh Ân)
Trong bối cảnh kinh tế trì trệ, nhà nước cạn kiệt nguồn lực, và sự bức bối lan rộng trong xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục tìm kiếm các giải pháp nửa vời nhằm duy trì sự kiểm soát tuyệt đối của mình. Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân là một ví dụ rõ ràng, tưởng như là sự cởi mở, nhưng thực chất lại là một nỗ lực củng cố mô hình “kinh tế hoạch định” đã lỗi thời, bằng các biện pháp cưỡng bức trá hình. Trong đó, việc ép buộc các hộ kinh doanh cá thể phải đóng bảo hiểm xã hội, áp dụng hoá đơn điện tử, và trừ thuế thẳng vào tài khoản ngân hàng, là một biểu hiện cụ thể của sự áp đặt vô lý và phản thị trường.
Chúng ta cần gọi đúng tên đây không phải là cải cách. Đây là một hình thức cưỡng bức kinh tế, áp đặt hành chính bằng một bộ máy quyền lực đã mất đi tính chính danh. Thay vì tạo điều kiện cho tự do kinh doanh, chính quyền lại thiết lập một môi trường bất ổn định, đầy rủi ro, khiến cho sự sáng tạo và năng lực của người dân bị bóp nghẹt.

Nền Kinh Tế Hoạch Định Và Nghị Quyết 68
Từ sau năm 1975, Việt Nam xây dựng nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, tức là toàn bộ hoạt động sản xuất, phân phối, đầu tư, thậm chí tiêu dùng, đều do nhà nước kiểm soát thông qua các chỉ tiêu, kế hoạch, và bộ máy công chức. Mô hình này không chỉ khiến năng suất tụt hậu, mà còn tạo ra một nền văn hóa ‘xin – cho’, nơi mọi sáng kiến đều phải chờ sự phê chuẩn từ cấp trên.
Ngay cả khi bước sang thời kỳ Đổi Mới năm 1986, Việt Nam vẫn chỉ thay đổi về hình thức. Nhà nước cho phép kinh tế tư nhân tồn tại, nhưng vẫn giữ lại phần hồn của mô hình kế hoạch. Bộ máy đảng trị tiếp tục kiểm soát toàn bộ các doanh nghiệp quốc doanh, hạn chế tự do cạnh tranh, và duy trì một hệ thống pháp luật thiếu minh bạch. Đến ngày hôm nay, nền kinh tế Việt Nam vẫn vận hành như một chiếc xe bị gãy trục, cố gắng tiến lên bằng cách vá víu các chính sách nửa vời, trong khi động cơ phát triển thực sự là sáng tạo và tự do lại bị kìm hãm.
Nghị quyết 68 được giới thiệu như là một dấu mốc chính sách để thúc đẩy kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, ai cũng thấy rõ rằng đây là một động tác mang tính chất giải nguy hơn là cải cách chiến lược. Bởi vì nền kinh tế đã cạn kiệt nguồn lực đầu tư công, bất động sản đóng băng, ngân sách suy kiệt và các địa phương không còn khả năng huy động tài chính từ quỹ đất. Nhà nước buộc phải trông chờ vào khu vực tư nhân để kéo tăng trưởng, nhưng thay vì mở rộng tự do, họ lại áp đặt kiểm soát bằng các biện pháp hành chính và cưỡng bức tài chính. Việc trừ thuế trực tiếp từ tài khoản cá nhân, bắt buộc các hộ kinh doanh nhỏ phải đóng bảo hiểm xã hội, hay áp dụng hóa đơn điện tử với mọi giao dịch không phải là sự hỗ trợ phát triển, mà là sự quản lý thuần túy vì mục tiêu thu ngân sách. Hậu quả là hàng triệu hộ kinh doanh cảm thấy bị ép buộc, bị săn đuổi như đối tượng trốn thuế, trong khi chính họ mới là những lực lượng sáng tạo, tạo công ăn việc làm và giữ cho nền kinh tế còn vận động.
Nền Kinh Tế Bị Tước Quyền
Mô hình kinh tế hoạch định bị áp đặt bởi một hệ thống chính trị độc đảng. Chính thể độc tài không chấp nhận cạnh tranh kể cả trong kinh tế. Và đó là lý do vì sao kinh tế quốc doanh, mô hình kinh tế không chịu sự cạnh tranh, vẫn tồn tại như một đứa con cưng của chế độ. Các doanh nghiệp nhà nước tồn tại như những pháo đài không thể phá vỡ, nơi lợi ích bị “tư bản bè đảng” thao túng, tài nguyên quốc gia bị lãng phí, và nhân tài bị loại trừ.
Chính Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã sớm nhận ra nguyên nhân gốc rễ đó, và trong “Những định hướng lớn của mô thức Việt Nam”(1), đã khẳng định rõ:” Dứt khoát chọn lựa một nền kinh tế thị trường lấy tư doanh làm nền tảng”:
Thứ nhất: Kinh nghiệm thế giới trong nhiều thập niên qua đã chứng tỏ rằng các chính sách kinh tế tập thể, quốc doanh đều dẫn đến thất bại. Kinh nghiệm cũng đã cho thấy rằng thị trường tự do là hướng dẫn chính xác nhất cho sản xuất và là bảo đảm chắc chắn nhất cho một sự phân phối hiệu nghiệm. Chọn lựa kinh tế phải có cho Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, lấy xí nghiệp tư làm nền tảng, lấy óc kinh doanh và sáng kiến làm sức mạnh, lấy tinh thần cầu tiến và làm giàu làm động cơ, lấy lợi nhuận làm phần thưởng và chất kích thích.
Thứ hai: Chọn lựa ấy có nghĩa là nhà nước sẽ không làm những gì mà tư doanh có thể làm được. Vai trò kinh tế chủ yếu của nhà nước là bảo đảm sự ổn vững của đồng tiền, ngăn ngừa những cạnh tranh bất chính, đầu tư vào những ngành nhiều triển vọng mà tư nhân chưa dám hoặc chưa đủ khả năng đầu tư, đảm nhận một số công trình khảo cứu, nghiên cứu và dự phòng cần thiết. Nhà nước cũng có chức năng cảnh giác trước những khuynh hướng kinh doanh có hại và khuyến khích những hoạt động kinh tế có lợi, nhưng nhà nước thực hiện chức năng này chủ yếu bằng thông tin và nâng đỡ chứ không phải bằng mệnh lệnh và cấm đoán. Nhà nước sẽ dồn mọi cố gắng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ trật tự an ninh, bảo vệ công lý, bảo vệ môi trường sinh sống, phát huy các mối bang giao quốc tế có lợi, xây dựng và củng cố đồng thuận dân tộc, nghĩa là làm đúng chức năng của một nhà nước.
Thứ ba: Để làm trọn chức năng đó và bảo đảm sinh hoạt kinh tế thị trường lành mạnh nhà nước phải liên tục nỗ lực xây dựng một hệ thống luật pháp đúng đắn trên tinh thần thực nghiệm, bắt đầu từ những căn bản đúng đắn và không ngừng được bổ sung dựa trên những án lệ.
Không ai phủ nhận rằng ngân sách cần thuế. Nhưng vấn đề không nằm ở việc thu thuế, mà nằm ở cách thức thu và mục đích sử dụng thuế. Khi người dân bị buộc phải đóng bảo hiểm xã hội trong khi không có bảo đảm gì về việc được hưởng quyền lợi; khi tài khoản cá nhân bị theo dõi và trừ tiền một cách không rõ ràng; khi hộ kinh doanh nhỏ bị truy thu thuế với thủ tục rối rắm mà không có chính sách hỗ trợ thì đó không còn là quản lý nhà nước, mà là sự cưỡng bức tài chính mang danh cải cách.
Chính sách tài chính chỉ hiệu quả khi gắn liền với công bằng, minh bạch và mục tiêu phát triển. Nhưng trong một thể chế độc quyền, những điều đó khó mà đảm bảo. Khi đảng cầm quyền là người thiết kế luật, thi hành luật, và cũng là người được hưởng lợi từ luật, thì chính sách không thể hướng tới công ích. Đó là một cấu trúc tạo ra bất bình đẳng một cách có hệ thống.
Phát Triển Thị Trường Nội Địa Là Ưu Tiên Hàng Đầu Của Nền Kinh Tế
Trong chương trình cải cách toàn diện mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đề xuất, phát triển thị trường nội địa là một chiến lược then chốt. Mô hình định hướng xuất khẩu, vốn được Việt Nam sao chép từ Trung Quốc đã tới giới hạn. Thế giới đang biến động chuỗi cung ứng toàn cầu ngày càng bất ổn. Đã đến lúc phải trở về với sức mạnh nội sinh của nền kinh tế, bắt đầu từ thị trường trong nước.
Điều đó chỉ có thể làm được nếu kinh tế tư nhân được giải phóng thật sự. Mỗi người dân phải được quyền tự do làm ăn, được bảo vệ tài sản và được đối xử công bằng. Không thể phát triển thị trường nội địa bằng cách siết chặt tiểu thương. Không thể làm giàu đất nước bằng cách săn đuổi người buôn bán nhỏ lẻ. Và không thể có tương lai nếu nhà nước vẫn tiếp tục coi người dân là đối tượng để kiểm soát hơn là đối tượng để phục vụ.
Kinh Tế Tư Nhân Cũng Là Khởi Điểm Của Dân Chủ
Kinh nghiệm kinh tế Thế giới đã chứng minh sự phát triển kinh tế không thể tách rời với dân chủ. Một nền kinh tế khỏe mạnh chỉ có thể tồn tại trong một xã hội dân sự mạnh, nơi quyền con người được bảo vệ, nơi tiếng nói của người dân được lắng nghe, và nơi quyền lực được kiểm soát. Nếu muốn cứu vãn kinh tế, Việt Nam phải thay đổi chính trị. Đó là lý do vì sao Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên kêu gọi chuyển đổi mô hình từ độc tài sang dân chủ. Từ kinh tế quốc doanh sang kinh tế tư nhân. Từ hoạch định sang tự do. Và từ cưỡng bức sang hợp tác.
Một thể chế đại nghị tản quyền, nơi quyền lực được chia sẻ, các địa phương và người dân có quyền chọn người đại diện, chính là mô hình phù hợp nhất cho Việt Nam hiện nay. Không có dân chủ, không có thị trường. Không có tản quyền, sẽ không có trách nhiệm. Không có tự do, sẽ không có sáng tạo và phát triển.
Việt Nam phải thoát khỏi nền kinh tế bị nhà nước nắm cổ. Phải thoát khỏi hệ tư tưởng đã bị lịch sử thế giới đào thải. Và quan trọng hơn cả, phải thoát khỏi nỗi sợ thay đổi.
Anh em chúng tôi đã đóng góp một con tàu và cũng đã đóng góp Dự án chính trị Khai sáng Kỷ nguyên Thứ hai – một Hải đồ để đi tới tương lai. Vấn đề còn lại là những trí thức Việt Nam, những người anh em đang phục vụ trong chế độ này có đủ dũng khí để bước lên hay không.
(1) Chương V: Những định hướng lớn của mô thức Việt Nam – Dự Án Chính Trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai.
Trần Khánh Ân
9/6/2025