Việt Nam cần có Trí thức chính trị (Đan Tâm)

 Chính trị trí thức và Chính trị gia trí thức



Vào ngày giáp Tết Nguyên Đán năm Quý Mão, 22/01/2023, tác giả Việt Hoàng khẳng định với độc giả Thông Luận qua đề tài : "Chúng ta có quyền tin vào tương lai đất nước", trong đó có nhận định chính xác rất thú vị như sau : "Thực tế nước Nga đã thất bại trong việc chuyển hóa đất nước về dân chủ do thiếu vắng một tầng lớp "trí thức chính trị" (1). Nhận định này gợi ý về một vấn đề rất cần tìm hiểu cho thực trạng đất nước Việt Nam hiện nay : "Trí thức chính trị".

Nhưng cái khó là một quốc gia làm thế nào để xây dựng được một đội ngũ trí thức chính trị trong một môi trường chính trị trí thức, dù là nước dân chủ hay nước cộng hòa. Muốn thế điều kiện cần là phải có một số đông "chính trị gia trí thức" / "nhà chính trị trí thức" được định hình là những người có tầm nhìn viễn kiến, có tư tưởng chính trị phù hợp với hoàn cảnh riêng trong quốc gia của họ nhưng vẫn phù hợp với thời đại văn minh của loài người.

Vậy thì đặc tính ‘hòa hợp và hòa giải’ không thể thiếu trong môi trường chính trị trí thức cũng như trong tư tưởng của nhà chính trị trí thức. ‘Hòa’ (là đặt những thứ khác nhau vào cùng một chỗ với nhau, mà chính trị trí thức có thể làm được - theo ngôn ngữ hiện thời là đa nguyên tức hàm ý của hòa hợp và không cực đoan. Nói khác đi ‘hòa hợp hòa giải’ là điều hòa những thứ bất đồng để đạt đến thống nhất hài hòa, chứ không phải triệt tiêu bản sắc của các tổ chức thành viên riêng biệt hay các cá nhân riêng biệt. Có thể diễn tả ‘Hòa hợp Hòa giải’ bằng cách tạm mượn câu nói "Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa", trích từ sách Luận Ngữ. Dùng câu này để mô tả ý nghĩa của ‘Hòa hợp Hòa giải’ theo thời buổi hiện nay thì ‘quân tử’ ví như nhà chính trị trí thức có thể đối xử với nhau rất hài hòa, nhưng họ có thể có những tm nhìn/ý kiến khác nhau, anh có đạo lý của anh, tôi có đạo lý của tôi, nhưng không vì cách nhìn chúng ta khác nhau mà trở thành đối địch. ‘Tiểu nhân’ ví như các chính trị gia cực đoan, xôi thịt, ngu dốt hay thiển cận thì không như vậy, họ ‘đồng nhi bất hòa’, ý kiến đưa ra có vẻ nhất trí nhưng thực chất là lục đục với nhau. Sở dĩ loại chính trị gia kém cỏi này có thể giả vờ hòa hợp ý kiến cho giống với chính trị gia trí thức là vì muốn đạt được mục đích chính trị, kinh tế, hoặc lợi ích cá nhân nào đó. Nhật Bản là một quốc gia tôn trọng sự hòa hợp. Khi người Nhật kết thúc một cuộc giao tiếp, họ hay nói : Yoroshiku onegaishimasu (しくおいします), thường được hiểu là ‘xin nhờ giúp đỡ’. Nhưng nội hàm sâu sắc hơn của câu nói này được giải thích từ ý nghĩa mong muốn hòa hợp, mong muốn hợp tác. 

Những ý tưởng định nghĩa trên tự nó đã đánh giá các nhà chính trị cộng sản (cộng sản Tàu hay cộng sản Việt) không thể là những "chính trị gia trí thức", dù họ sở hữu nhiều bằng cấp từ phương Tây hay từ nhà nước cộng sản Việt Nam. Dĩ nhiên chính trị gia khoa bảng không nhất thiết là "chính trị gia trí thức" theo định nghĩa nói trên.

Không thể thừa nhận các chính trị gia cộng sản Việt Nam là chính trị gia trí thức, bởi vì :

- Họ cổ vũ và hành động cực đoan theo một chủ thuyết Mác-Lê đã lỗi thời gần một thế kỷ, đã được được chứng minh là hoan tưởng, phi thực và phản lô-gic.

- Họ tuyên truyền không đúng với sự thật của môi trường chính trị độc tài toàn trị và chính sách nhà nước theo "chủ nghĩa xã hội" của chính họ. Thực tế là không ai có thể minh định xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội cụ thể như thế nào, kể cả chính họ.

- Riêng đối với Đảng cộng sản Việt Nam thì nền "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" là một nền kinh tế kỳ lạ chưa từng được nghiên cứu hàn lâm và áp dụng vào thực tế ờ bất cứ nơi nào trên thế giới. Thế thì nên gọi họ là chính trị gia loại nào thì tùy nhận định cá nhân của mỗi người, nhưng chắc chắn họ tuyệt đối không là chính trị gia trí thức.

Thêm nữa, để minh họa cho ý tưởng phân biệt chính trị gia khoa bảng và chính trị gia trí thức cần phải thừa nhận nội các Trần Trọng Kim (3/1945 – 9/1945) bao gồm 90% các chính trị gia khoa bảng, kể cả sử gia Trần Trọng Kim, nên chỉ tồn tại hơn 6 tháng dù đang nắm trong tay thời cơ vàng để cứu nước. Chỉ cần chính phủ Trần Trọng Kim có đa số bộ trưởng là chính trị gia trí thức thì chính phủ này đã không trao quyền cho đám người tự nhận là "cướp chính quyền" do Hồ Chí Minh cầm đầu. Không trao quyền cho một nhóm cực đoan chính trị nhỏ và yếu hơn quyền lực nội trị của chính phủ Trần Trọng Kim lúc bấy giờ thì lịch sử Việt Nam đã tránh được con đường đi qua chính thể cộng sản và cực quyền toàn trị suốt hơn 70 năm qua. Như thế, chính trị gia khoa bảng chưa hẳn là chính trị gia trí thức nhưng ngược lại thì một chính trị gia trí thức cũng có thể là nhà khoa bảng hoặc không cần phải có bằng cấp khoa bảng, nhưng điều kiện cần thiết nhất là có tầm nhìn, tri thức, trí tuệ và tư tưởng chính trị phù hợp với thời đại hiện hành.

Gần với thời điểm hiện tại và trước khi hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu xuất chính, chúng ta phải thừa nhận nhà chính trị trí thức Phan Tây Hồ (Phan Chu Trinh, 1872-1926) là tiêu biểu nhất cho tư tưởng và ý thức "chính trị trí thức".

Phan Chu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào duy tân đầu thế kỷ 20. Là một nhà nho khoa bảng trong cả hai lãnh vực Cựu học và tri thức Tây học, cụ Phan đã thực tâm yêu nước nồng nàn và có nhiều suy nghĩ trí thức và tiến bộ. Có thể xem ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ 20. Vào thời đó, tư tưởng "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" của dự án vận động duy tân, hay còn được gọi là "Phong trào Duy tân"hay "Phong trào Duy tân bắt rễ ở Trung Kỳ", là một cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam, do Phan Châu Trinh (1872 -1926) phát động năm 1906. Cho đến năm 1908 thì phong trào lan rộng khắp Việt Nam và kết thúc sau khi bị thực dân Pháp đàn áp và cụ Phan mệnh chung vào năm 1926, ở tuổi 54. Tuy vậy sau 1954, chế độ Đệ I Cộng hòa tại Miền Nam Việt Nam đã mô phỏng và thực hiện một số sách lược trong dự án Canh Tân Việt Nam của cụ Phan suốt 9 năm dài 1954-1963.

Phong trào Duy tân chủ trương bất bạo động, khôi phục đất nước bằng con đường nâng cao dân trí, cải tổ xã hội về mọi mặt, trong đó có kinh tế, giáo dục và văn hóa, với các hoạt động thực tiễn như là mở mang kinh tế, lập các nhà buôn lớn để tự lực, mở trường dạy học hiện đại : dạy quốc ngữ, bỏ lối học khoa bảng từ chương, thêm khoa học và ngoại ngữ cũng như hướng đến nền chính trị dân chủ.

Phong trào Duy tân bao gồm tất cả các hoạt động ấy, nhưng nó biểu lộ những sắc thái và khả năng khác nhau của từng địa phương và không phải bao giờ cũng đi theo đường thẳng nhất định, nên khi dân trí lên cao lại thiếu lãnh đạo liền bột phát thành Dân biến. Dân biến cúp tóc (Tân Văn hóa), xin xâu (Dân quyền) là một diễn trình tích cực, sôi động của Phong trào khi đi sâu vào quần chúng thực tế. Phong trào đi từ các nông hội, học hội ở các tỉnh Miền Trung theo con đường thương mãi rất phát đạt từ Phan Thiết tới Quảng Nam tới Nghệ Tĩnh, tiếp theo tới miền Bắc mở Đông Kinh Nghĩa Thục, các hội buôn rồi từ đó phát triển vào Nam là một Phong trào không chỉ nặng về kinh tế, giáo dục, văn hóa mà còn cả chính trị mà kết quả là vụ nhân dân nổi lên chống thuế. Có thể gọi Phong trào này là toàn diện, là thực sự Duy tân theo bóng cờ Dân quyền, chứ không phải chỉ là những vá víu cải lương. Những nhân vật của Phong trào đã phục vụ bằng tâm huyết, bằng tinh thần cách mạng để quyết tâm "làm mới con người""làm mới xã hội". Từ đầu thế kỷ đến 1945, chưa hề có một phong trào thứ hai có tính cách toàn diện và phát triển rộng ra khắp ba kỳ như Phong trào Duy tân này (2).

Lần theo dấu vết lịch sử Việt Nam từ 1945 lùi thêm về trước, chúng ta thừa nhận nhân vật lịch sử Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) là một "chính trị gia trí thức" của Việt Nam vào thế kỷ 19 với dự án Canh tân đất nước phù hợp với một nền chính trị trí thức để giải quyết vấn nạn thực dân và phong kiến Khổng giáo (3). "Chính trị gia trí thức" Nguyễn Trường Tộ thất bại vì Việt Nam vào thời đó chưa có được một tập hợp đông đảo "chính trị gia trí thức" để tạo được một thế lực mạnh thúc đẩy cho công cuộc canh tân của mình.

Lùi về thế kỷ 16, chúng ta tìm ra một "chính trị gia trí thức" khác là Đào Duy Từ (1572- 1634), quân sư của chúa Nguyễn Phúc Nguyên vào thời "Lê mạt Nguyễn sơ". Ông Đào Duy Từ đã soạn ra cuốn sách Hổ Trướng Khu Cơ để hướng dẫn quân sĩ cách bày binh bố trận, cách sử dụng và chế tác các loại vũ khí. Về kinh tế, chính trị ông đã giúp chúa Nguyễn xác định rõ chính sách ruộng đất, luật lệ thuế khóa, chấn chỉnh phong tục, nếp sống của quan lại, binh sĩ và dân cư. Đây chính là một nền tảng Chính trị trí thức vào thời đó, do nhà chính trị trí thức xuất thân từ quần chúng bình dân và không liên quan gì đến khoa bảng vào thời đó (4).

Nhà hậu Lê (1428-1789) kéo dài hơn 350 năm còn có một "chính trị gia trí thức" lỗi lạc của lịch sử 5000 năm văn hiến Việt Nam : Quân sư Nguyễn Trãi (1380-1442), người khai sáng và xây dựng triều đại lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam (5). Nguyễn Trãi là một thiên tài nhiều mặt hiếm có. Đại Cáo Bình Ngô tuy viết bằng chữ Hán nhưng xứng đáng là áng "Hùng văn muôn thuở". Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tập thơ tiếng Việt (chữ Nôm) sớm nhất có giá trị lớn còn lại đến ngày nay. Nguyễn Trãi đã góp phần xây đắp nền móng vững chãi cho văn học dân tộc. Nguyễn Trãi - Bậc đại anh hùng dân tộc, nhân vật toàn tài số 1 của lịch sử Việt Nam. Ở Nguyễn Trãi có 1 nhà chính trị, 1 nhà quân sự, 1 nhà ngoại giao, 1 nhà văn, 1 nhà thơ mang tầm cỡ kiệt xuất vĩ đại. Đây là một chính trị gia trí thức kiệt xuất vào bậc nhất trong số các nhà chính trị trí thức trong quá trình lịch sử 5000 năm của Việt Nam. Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới và tổ chức kỷ niệm 600 năm sinh nhật của ông. Đây chính là một "chính trị gia trí thức" lỗi lạc đã đóng vai trò lãnh đạo hửu hiệu một xã hội Việt Nam mới ngay sau khi lật đổ thực dân Tàu. Nguyễn Trãi đã gửi hàng chục bức thư khẳng định rõ tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427), tinh thần nhân đạo của nhân dân, khẳng định sự thất bại tất yếu của quân xâm lược, làm cho giặc hoang mang, tự biết con đường duy nhất là phải chịu hòa mà rút về, do đó Đông Quan lấy được không mất một mũi tên. Đánh giá về Nguyễn Trãi, Phan Huy Chú viết : "Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi có sức mạnh của mười vạn quân". Cho đến tận ngày hôm nay, tư tưởng dân sinh dân quyền của Nguyễn Trãi vẫn còn giá trị ứng dụng phần nào trong bối cảnh chính trị trí thức của thế kỷ 21 này. Tư tưởng xây dựng một chế độ mới dân chủ, bình đẳng của Nguyễn Trãi hơn bao giờ hết nên đươc phát huy cao nhất trong điều kiện hiện tại để người dân được quyền tham gia vào mọi hoạt động xây dựng đất nước.

Sau Nguyễn Trãi chúng ta cũng tìm thấy một chính trị gia trí thức khoa bảng khác vào thời kỳ Lê mạc là Ngô Thời Nhiệm (Ngô Thì Nhậm). Thật vậy, trước khi ra lệnh xuất quân ra Bắc, đại phá quân Thanh, Vua Quang Trung đã suy tính trước : "Quân Thanh sau khi thua, tất lấy làm xấu hổ, quyết không muốn hòa hiếu. Nhưng, hai nước đánh nhau, cũng không phải là phúc cho dân. Nên nay, chỉ có người nào khéo về giấy tờ (giỏi thương lượng, đàm phán), mới có thể ngăn được họa binh đao. Việc ấy, cần nhà ngươi (Ngô Thì Nhậm) chủ trương lấy" ! Cuối cùng, sự việc diễn ra đúng như vậy. Sự kiện này cho thấy Ngô Thì Nhậm đúng là một nhà chính trị trí thức dưới thời Nguyễn Tây Sơn (6) và (7).

Chính trị gia trí thức Việt Nam kể từ 1975

Xét đến môi trường chính trị Việt Nam từ 1945 đến hiện tại thì sự cần thiết của một tầng lớp chính trị gia trí thức rõ ràng là một ưu tiên cao nhất cho quốc nội và hải ngoại.

Tại quốc nội hiện nay thì các nhà chính trị cộng sản thuộc chế độ toàn trị độc đảng không được công nhận là chính trị gia trí thức vì các lý do sau đây :

1. Họ bị Đảng cộng sản Việt Nam tẩy não toàn diện để trờ thành những con người xã hội chủ nghĩa tuyệt đối trung thành với chủ thuyết lạc hậu, cực đoan và phong kiến Mác-Lê-Mao-Hồ, vốn đã bị đào thải từ hơn 40 năm trước (1980) ra khỏi nền văn minh nhân loại kể từ đầu thế kỷ 21 này. Hiếm hoi có vài thành phần chóp bu của Đảng cộng sản Việt Nam thức tỉnh muốn quay về với môi trường chính trị trí thức (dân chủ, tự do, nhân quyền) thì lập tức bị chính cái đảng quái gở này triệt tiêu ngay lập tức, như Nguyễn Mạnh Tường, Phan Khôi, nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, Trần Xuân Bách, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, v.v… Ngay sau 1975, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trương Như Tảng, Trịnh Đình Thảo và Dương Quỳnh Hoa bị cô lập, sau đó 10 năm là Trần Văn Trà, Nguyễn Hộ rồi đến Nguyễn Hà Phan và nạn nhân cuối cùng cuộc đấu đá Nam-Bắc của Đảng cộng sản Việt Nam là Võ Văn Kiệt.

2. Chính trị gia của Đảng cộng sản Việt Nam đã không đủ tầm nhìn để hành động kịp thời theo 3 cuộc biến đổi lịch sử của đất nước mà mọi người đã chứng kiến qua 3 mốc điểm sau :

a. Năm 1975 sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam cai trị toàn cõi Việt Nam và đã làm cho đất nước nghèo đói, người dân phải ăn độn, ngoại giao bị cô lập bên ngoài các nước văn minh tiến bộ, suốt 11 năm từ 1975 đến 1986. Những thất bại trong mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, giá lương tiền của hàng chục triệu người, được điều tiết theo ý chí chủ quan nhưng lại thiếu hiểu biết về quy luật thị trường. Kinh tế đất nước đã rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, lạm phát tăng hàng ngày, đồng bằng với đất đai phì nhiêu mà dân thiếu gạo ăn.

b. Năm 1986, Đảng cộng sản Việt Nam bị buộc phải thay đổi hay "đổi mới" (renovation), sau khi Liên Xô đã đi vào lụn bại và sắp tàn. Nhờ   ổi mới" nông dân (80% dân số) có thể lựa chọn ở trong hợp tác xã hoặc ra ngoài làm ăn cá thể và được làm chủ ruộng đồng củamì nh nên Việt Nam đã trở thành nước xuất gạo nhất nhì thế giới từ năm 2010. Nhưng công cuộc đổi mới này chẳng có gì là mới vì chính trị thì vẫn độc tài, độc đảng và toàn trị, kinh tế thì hoang tưởng với chính sách "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" rất hn loạn và phi tri thức.

c. Năm 2000 thì thế giới chuyển biến, đi vào thời kỳ toàn cầu hóa kinh tế, trong khi đó chế độ cộng sản Việt Nam chỉ biết lợi dụng yếu tố nhân công rẻ để chiêu dụ đầu tư quốc tế thay canh tấn đất nước để hội nhập vào toàn cu hóa  kiến tạo một nền kinh tế bền vững (sustainable) cho Việt Nam, như Singapore, Đại Hàn, Đài Loan đã thực hiện thành công. Tuy yếu tố nhân công rẻ - dưới nhãn quan đầu tư ngoại quốc vào Việt Nam có đem lại cho người dân Việt Nam thu nhập khá và thoát ách nghèo đóiồng thời tạo một ra một bộ mặt mới cho Việt Nam, nhưng bản chất của nền "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" vẫn không bền vững nên tệ nạn tham nhũng, lợi ích nhóm, bong bóng nhà đất, chứng khoán, ngân hàng và đầu tư đang trong tình trạng giao động và mất kiểm soát kể từ 5 năm qua (2018-2023 này).

Kể từ năm 2000, khi có của ăn của để đôi chút, người dân nghĩ đến đi ra ngoài xem thế giới họ sống ra sao. Khi đó, 70 triệu người Việt dù không có đủ tiền mua vé máy bay đi ra nước ngoài nhưng họ có thể du lịch qua "thế giới ảo" Internet. Đó chính là thế giới thông tin World Wide Web và giấc mơ Internet cho Việt Nam.

Trước năm 1997, Đảng cộng sản Việt Nam đã sợ hãi "thông tin trung thực từ Internet vào Việt Nam sẽ lật tẩy tuyên truyền một chiều kiểu tuyên giáo đảng và kéo người dân ra khỏi tình trạng lạc hậu về tư tưởng".

Sau khi trì hoãn cả chục năm và cuối cùng vào năm 1997, chính quyền cộng sản Việt Nam đành phải chấp nhận nối mạng vào Internet, nhưng vẫn tìm cách kiểm duyệt những tri thức độc lập ngoài luồng chủ thuyết Mác Lê Mao Hồ. Internet chính là đòn bẩy cho kinh tế đất nước, là "cái cày" của người dân trong "đồng ruộng" toàn cầu hóa. Đưa Internet đến từng người dân giống như ta   đã   trả lại ruộng đất cho nông dân thuở trước. Họ tự biết làm thế nào để tạo ra sản phẩm trên "đồng ruộng tri thức" ấy để xuất khẩu loại "gạo" mới.

Hơn 30 năm qua, nhờ vào Internet, dù bị hạn chế, nước Việt Nam đã phát triển mạnh hơn bao giờ hết với nhịp độ tăng trưởng 7-8% năm cho tới thời kỳ dịch Vũ Hán 2019 lan ra toàn cầu.

Ba sự kiện trên đều xảy ra cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Bây giờ nhân loại đã sang thế kỷ 21 được hơn hai thập kỷ với nhiều kỳ vọng thay đổi nhưng nước cộng sản Việt Nam vẫn chưa có một thành tựu IT nào đáng kể trên "đồng ruộng trí thức" ấy để xuất khẩu. Đó chính là vì suốt 3 thời kỳ a,b,c nói trên thành phần chính trị gia trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam không hề có một người nào là chính trị gia trí thức.

Cách đây 30-40 năm, những nhà lãnh đạo Singapore, Hàn Quốc hay Đài Loan đã quan niệm IT và Internet là cách thức phát triển cho họ nên không ngạc nhiên thấy đất nước người ta đã "hóa rồng" từ lâu. Thiết nghĩ, chính khách thời nay cần có hiểu biết về xu hướng công nghệ, có tầm nhìn xa vài thập kỷ và đặt lợi ích của cả dân tộc lên trên lợi ích của đảng phái, bằng không IT Việt Nam mãi mãi dừng lại trong các bài phát biểu chung chung của các chính trị gia thiếu tri thức của cộng sản Việt Nam. Vì vậy chính sách "đổi mới" có từ gần nửa thế kỷ qua vẫn còn nguyên giá trị : đất nước đang cần sự đổi mới về công nghệ trong tư duy lãnh đạo cộng sản Việt Nam.

Thế giới đã đi rất xa về công nghệ. Việt Nam cũng đã có nhiều tiến bộ với hạ tầng Internet thuộc loại tốt trong khu vực, người dùng cũng nhạy bén, mới đây ChatGPT (AI chatbot) đã được người dân trong nước rầm rộ dùng thử, dù Việt Nam chưa chính thức có dịch vụ này. Hơn một nửa dân số có tài khoản mạng xã hội, nên Internet đã phủ sóng ngang như lưới điện về nông thôn, nhưng lợi thế này không được các lãnh đạo trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam biết cách tận dụng cho kinh tế bền vững. Ngược lại, họ chỉ tạo ra các cơ chế phá hoại như Lực lượng 47, Dư Luận Viên, An Ninh Mạng của Bộ Quốc phòng và của Bộ Công an…

Để có ngành IT thành mũi nhọn thì chiến lược phát triển lâu dài mới có thể thành công. Trong công nghệ, sao chép, bắt chước, đi tắt đón đầu mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam hay rêu rao thì cũng chỉ là những giải pháp vá víu và lạc hậu trong thời đại Internet đang minh bạch hóa thông tin toàn cầu. Cổ nhân đã dạy "Hiền tài là nguyên khí quốc gia". Thời đại toàn cầu hóa thì chất xám quyết định quốc gia nào sẽ tiến lên và ai là người tụt hậu. Nếu không có chính sách ưu đãi nhân tài và tạo điều kiện để hiền tài phát triển thì nguyên khí sẽ bay đi. Chuyện muôn thuở "đất lành chim đậu", một quy luật tự nhiên của dòng chảy chất xám từ quê ra tỉnh, từ miền núi xuống đồng bằng, từ tỉnh này sang tỉnh khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Đảng cộng sản Việt Nam chỉ đầu tư vào những chính trị gia đảng viên "hồng hơn chuyên" thì làm sao có được hiền tài (chính trị gia trí thức).

Tại Việt Nam ngày nay, nền tảng công nghệ đã tốt, thế hệ trẻ kiến thức không kém ai, đất nước cũng ổn định, nhưng rõ ràng thiếu cái gì đó mà IT xứ này chưa có sản phẩm nào nổi tiếng, chưa cần nói đến AI hay ChatGPT. Hay là môi trường phát triển có gì đó không ổn ? Người có trình độ nhìn vào sẽ tự thấy mình cần "hòa nhập cho giống" hay lắc đầu bỏ đi, cả hai giải pháp đều hỏng, để rồi nước mình mãi đi sau, về sau. Bế tắc chính yếu là Đảng cộng sản Việt Nam không hề có bất cứ chính trị gia trí thức nào trong suốt quá trình cướp quyền cai trị một nửa nước Việt Nam trước 1975 và toàn cõi Việt Nam từ 1975 đến nay.

Thực trạng Việt Nam ngày nay

Cuối năm 2022, tự điển Collins bổ sung một từ mới là "permacrise" (khủng hoảng thường trực), do 2 từ Permanent và Crise ghép lại, rất đáng suy nghĩ cho hiện trạng của chế độ cộng sản Việt Nam kể từ năm này. Năm 2022 kết thúc với một số biến cố vẫn đang tiếp diễn theo chiều hướng nguy hiểm, cực đoan và có thể đẩy nhân loại vào thảm họa thế chiến hoặc chiến tranh nguyên tử. Những biến cố đó là Cuộc chiến tranh xâm lăng Ukraine, do siêu cường nguyên tử liên bang Nga tự cho mình cái quyền tự do khởi động chiến tranh xâm chiếm lãnh thổ của quốc gia láng giềng, và Biến thể mới Omicron của dịch bệnh Vũ Hán Covid-19 đang ngập tràn Trung Quốc giết chết hơn 1 triệu người tính tới đầu năm 2022.

- Liên bang Nga xâm lăng Ukraine chính là một tiền lệ nguy hiểm cho các nước nhỏ, đặc biệt là Việt Nam khi luật pháp quốc tế đã bị vi phạm và khi vũ lực trở thành tiếng nói quyết định trong quan hệ giữa các nước. Chiến tranh tại Ukraine đã kéo dài hơn một năm và đã sát hại hơn một trăm ngàn người và gây thương tật cho hàng trăm ngàn người khác ; nhiều làng mạc và thành phố của Ukraine đã bị quân Nga và lính đánh thuê Wagner tàn phá thành bình địa. Trước mắt là hơn chục triệu người Ukraine mất nhà cửa, tài sản gia đình và kế sinh nhai. Nhân loại khắp nơi đều cảm thấy ngậm ngùi cho số kiếp của dân tộc Ukraine. Hậu quả của chiến tranh xâm lăng Ukraine cho thấy Quốc tế và Liên Hiệp Quốc, Công pháp quốc tế, Nền tảng của trật tự và hòa bình thế giới đã thất bại khi không ngăn cản được chiến tranh xâm lăng ngay trong đầu thập kỷ 21 của thế kỷ 21. Trách nhiệm chính của thất bại này có thể quy cho các nhà lãnh đạo của các siêu cường, các định chế quốc tế lớn, và các tôn giáo lớn đã không gìn giữ được hòa bình cho các nước nhỏ. Thêm nữa là cuộc chiến đó cũng đem đến bất ổn cho nền kinh tế toàn cầu, đẩy giá nhiên liệu, giá lương thực và các sản phẩm thiết yếu lên cao rất đột ngột, khiến cho cuộc sống hàng tỷ người trên thế giới phải khốn đốn. Hiện trạng thế giới lâm vào tình trạng giống như một quốc gia vô chính phủ khi sánh với tình trạng khủng khoảng của nước Somalia trước đây.

Biến thể mới dịch bệnh Covid-19, Omicron, đã giết chết gần 1 triệu người Trung Quốc chỉ trong thời gian 1 tháng (thống kê này bị cộng sản Tàu giấu kín, nhưng vẫn bị Internet xới tung lên) vào cuối 2022 vừa qua là một nguy cơ cho Việt Nam vì giao thông biên giới giữa hai bên đã hầu như mở cửa hoan toàn.

Tại Việt Nam, năm 2022 kết thúc với nhiều bất ổn về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, giáo dục, nhân quyền và tôn giáo, sau khi đại dịch Vũ Hán-19 đã tạm thời lắng dịu (8).

Trước nhất là kinh tế suy trầm, thị trường nhân dụng khó khăn khi hàng loạt công ty, xí nghiệp, hãng xưởng đóng cửa, dẫn đến việc hàng trăm ngàn công nhân bị mất việc, nhất là những tháng cuối năm 2022. Nguyên do chính là vì chóp bu cộng sản Việt Nam tham nhũng, loại trừ lẫn nhau, đấu đá tranh dành quyền lực và chức vụ làm cho các nhà đầu tư quốc tế nãn chí nên đã kìm hảm tốc độ tham gia giúp Việt Nam trở thành một trong các nước sản xuất hàng hóa cho thế giới. Trong khi tại quốc nội, các tập đoàn đầu tư quốc doanh hoặc tư doanh sân sau của các cấp trung ương Đảng cộng sản Việt Nam gây khủng khoảng bất động sản (nhà và đất) và tín dụng ngân hàng làm cho hàng trăm nghìn gia đình mất sạch tài sản tiết kiệm cả đời.

Một đất nước mà tham nhũng tràn lan như vậy thì đi đâu về đâu, người dân biết dựa vào đâu để có niềm tin vào ngày mai. Một đất nước không còn lý tưởng, không còn sự tử tế, đất nước đó sẽ về đâu ?


Các nhóm lợi ích từ trung ương đến xã thôn thì tranh nhau lạm dụng tiền thuế trong ngân sách quốc gia. Chế độ cầm quyền độc đảng cộng sản Việt Nam thì vẫn bất lực hoặc âm thầm hổ trợ cho các thế lực lợi ích nhóm thao túng quốc gia, tạo nên sự bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng khi tài sản của giới siêu giàu chiếm 90% nguồn lực đất nước. Còn lại hơn 99 triệu người Việt trung lưu và người nghèo chỉ sở hửu 10% nguồn lực quốc gia còn lại. Di lụy từ hai con số cách biệt 10% và 90% này đang đẩy xã hội tiến dần vào tình trạng động loạn và mất kiểm soát theo quy luật tự nhiên. Hơn nữa, sinh hoạt chính trị của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam càng ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều hơn, làm cho kinh tế càng phụ thuộc Trung Quốc nhiều hơn. Nền chính trị độc tài cộng sản kiểu Việt Nam và Trung Quốc là nền chính trị độc hại, vì nó làm ngu dân, đồng thời làm người dân mất tự do. Kinh tế phụ thuộc sâu vào Trung Quốc thì hàng hóa kém phẩm chất và thực phẩm độc hại sẽ chiếm lĩnh thị trường.

Hiện tình, chế độ cộng sản Việt Nam đang đối diện với một tương lai đất nước đầy bất trắc vì tứ cố vô thân trên trường quốc tế, ngoại trừ Nga và Trung Quốc là 2 đồng minh và đồng chí cực quyền toàn trị thân thiết. Các quốc gia giàu có và văn minh thì chỉ bang giao kinh tế với chế độ cộng sản Việt Nam để vun quén lợi nhuận chứ không thật lòng là những nước bạn. Do đó chính quyền cộng sản Việt Nam đang đối mặt với thực trạng một quốc gia yếu kém cả về kinh tế lẫn quốc phòng, nhưng nhà cầm quyền vẫn không thức tỉnh để cùng toàn dân tìm giải pháp tốt hầu bảo vệ quốc gia, thăng tiến xã hội, chấn hưng đất nước, đặt nền móng lâu dài cho xã tắc. Họ vẫn tiếp tục dị ứng với các giá trị phổ cập của nhân loại là tự do, dân chủ, nhân quyền và đã bắt giam hơn 300 nhà bất đồng chính kiến và người yêu nước trong 2 năm 2021 và 2022. Vì vậy quốc tế thấy rất rõ là chế độ độc tài cộng sản toàn trị Việt Nam đã khóa mọi con đường cởi mở, mọi cánh cửa đối thoại, gạt ra ngoài mọi ý kiến đóng góp để dân chủ hóa đất nước, đưa đất nước hội nhập thế giới văn minh, làm cho Việt Nam bị cô lập trong một môi trường thế giới đầy thiên la địa võng của những tranh chấp địa chiến lược.

Về mặt xã hội, chế độ cộng sản toàn trị tại Việt Nam đã làm cho đạo đức xã hội suy đồi, giới trẻ mất phương hướng lập thân lập nghiệp, trở thành những con người vô cảm, chỉ biết có mình, sống vị kỷ và thực dụng. Giá trị truyền thống dân tộc bị lãng quên, tinh thần yêu nước bị xuyên tạc thành tiêu chuần quái gở "yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội ! Mê tín dị đoan được khuyến khích để làm băng hoại các tôn giáo có ảnh hưởng lớn trong việc duy trì đạo đức xã hội. "Nói một đằng làm một nẻo" là chủ trương xuyên suốt của Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền. Nhiều chính trị gia quốc tế đã không hy vọng gì vào sự thay đổi của Đảng cộng sản Việt Nam vì đảng này vẫn chưa bao giờ nhìn nhận có sự khác biệt về tư tưởng chính trị giữa ngưới Việt trong và ngoài Đảng, trong nước và hải ngoại. Chính vì thế chúng ta có thể kết luận rằng "Đảng cộng sản Việt Nam không hề có "chính trị gia trí thức" và cũng không mong muốn thực hiện một môi trường "chính trị trí thức".


Giải pháp cho Việt Nam

Đứng trước hiện tình đất nước và hiện trạng xã hội đang suy vong như vậy, giải pháp cho tình hình Việt Nam sẽ phải :

- là mô hình chính trị trí thức để có thể hòa giải với người dân, tôn trọng người dân đúng với quyền lực và phẩm giá của người chủ đất nước trong tinh thần tự do dân chủ và nhân quyền.

- là đối thoại trên tinh thần chân thật và tương kính với thành phần trí thức yêu nước, thành phần bất đồng chính kiến và các thành phần của xã hội dân sự, trong và ngoài nước, hầu cùng nhau tìm đối sách để Việt Nam có thể trường tồn trong một thế giới đang có khuynh hướng trừ bỏ độc tài để nâng cấp và phát triển nền văn minh dân chủ thêm lên.

- là thành tâm và thiện chí thỉnh cầu các nhà lãnh đạo tôn giáo đứng ra khôi phục đạo đức xã hội và nguyên khí quốc gia trên tinh thần và những giá trị nhân bản và thiện lương. Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải nhìn nhận rằng giá trị và tinh thần tam giáo đồng nguyên đã góp phần trong việc vệ quốc và hưng quốc trong lịch sử thì ngày nay với tinh thần ấy cộng với tinh thần bác ái Kyto giáo nói chung sẽ là giải pháp cho nền đạo đức hiện tại và tương lai bên trong nước Việt Nam.

Hiện trạng nói trên của Việt Nam ngày nay cho thấy tầng lớp chính trị gia trí thức là vô cùng cần thiết để đẩy mạnh cuộc cách mạng chính trị trong ôn hòa và bất bạo động song song với công công cuộc phát triển một môi trường"chính trị trí thức"thay cho môi trường "chính trị phi trí thức" của Việt Nam suốt hơn 80 năm qua. Câu hỏi đặt ra là đã có "chính trị gia trí thức" xuất hiện trong và ngoài nước Việt Nam hay chưa ?

Theo tôi, câu trả lời là có và rất cụ thể như sau :

- Trong nước có tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức và tù nhân lương tâm Phạm Đoan Trang hiện đang bị giam cầm trong nhà tù của cộng sản Việt Nam là những thí dụ tiêu biểu của "chính trị gia trí thức" tại quốc nội. Bởi vì ông Trần Huỳnh Duy Thức sẵn sàng chấp nhận cái chết khi biết rằng khó mà thuyết phục một nhà cầm quyền như Việt Nam biết thượng tôn pháp luật một cách đơn giản theo cung cách nhân loại văn minh. Điều an ủi là giữa lúc nhiễu nhương như hiện cảnh tổ quốc vẫn còn có những người từ chối sống béo tốt, và sẵn sàng hy sinh tính mệnh vì lẽ phải như ông Trần Huỳnh Duy Thức. Thêm nữa, là dù quê hương đang rơi vào hoàn cảnh bi đát đến thế nào chăng nữa thì đất nước này vẫn còn có những chính trị gia trí thức như ông Trần Huỳnh Duy Thức đã hết lòng vì dân tộc, chứ không chỉ thuần là một nhóm trí thức trùm chăn hay một đám cơ hội ăn theo. Còn nhà báo trí thức Phạm Đoan Trang thì đã từ chối sang Mỹ để ở lại Việt Nam đồng hành cùng dân tộc cho con đường tự do dân chủ Việt Nam. Cũng còn có các "chính trị gia trí thức" khác đang ở ngoài nhà tù của chế độ cộng sản Việt Nam mà nếu tinh ý quan sát sẽ dễ dàng nhận ra, nhưng không nên nêu danh tánh công khai để tránh cho họ bị công an và an ninh của chế độ cộng sản Việt Nam đàn áp. Hơn nữa, lớp trẻ khá đông trong nước từ 30 đến 50 tuổi, bao gồm rất nhiều nhân tố có trí tuệ, tầm nhìn, dũng khí và không chấp nhận bị Đảng cộng sản Việt Nam nhồi sọ, đã đang và sẽ là một tập hợp có tiềm năng sản sinh ra một số đông "chính trị gia trí thức" trẻ.

- Tại hải ngoại, tầng lớp chính trị gia Việt Nam thuộc môi trường chính trị "phi trí thức"cũ (trước năm 2000) chỉ còn lại rất ít và bị cách ly với đồng bào quốc nội suốt 48 năm qua. Trong số người còn lại rất ít đó, có một số nhân tố rất ít ở lứa tuổi 70 đến 80 có thể xếp vào tầng lớp "chính trị gia trí thức và vì rất ít nên họ chỉ đóng vai xúc tác. Kỳ vọng lớn đang là thế hệ thứ 2 tức con cháu người Việt tỵ nạn cộng sản tại Âu-Mỹ đã và đang trưởng thành về kiến thức, về chính trị và về mứt độ dấn thân. Nhưng quan trọng hơn là những hoạt động yêu nước đa dạng tại hải ngoại của tầng lớp chính trị gia Việt Nam thuộc môi trường chính trị "phi trí thức"cũ là một kho tàng kinh nghiệm cho các "chính trị gia trí thức" trẻ đang tiếp nối công cuộc đấu tranh chọn lọc để rút tỉa các bài học thích hợp cho hiện trạng Việt Nam.

Kết luận

Như vậy, để tóm tắt các tiêu chuẩn định hình được chính trị gia trí thức / nhà chính trị trí thức, chúng ta cần xem xét 3 yếu tố sau :

Có kiến thức về chính trị quá khứ và hiện tại của quốc gia và quốc tế ;

- Có tầm nhìn và nắm bắt được những đặc điểm cần có cho một môi trường chính trị trí thức trong tương lai gần và xa của quốc gia, phù hợp với xu thế văn minh đang diễn tiến của nhân loại ;

- Có tư tưởng chính trị, dự án chính trị và chương trình hành động, hướng đến một nền tảng chính trị trí thức và tuyệt đối tôn trọng nhân quyền và tự do dân chủ của công dân.

Hiện trạng Việt Nam ngày nay và xu thế kỷ nguyên mới trên toàn cầu đang diễn tiến nhanh chóng do trí thông minh nhân tạo (Artificial Intelligence / AI) và mạng Internet thúc đẩy, cho thấy sự xuất hiện công khai, ôn hòa và đông đảo của một tầng lớp chính trị gia trí thức trong nước và hải ngoại là cần thiết và cấp bách. Cần thiết và cấp bách bởi vì, so với vận hội lịch sử xuất hiện vào tháng 3/1945 thì giờ đây một vận hội mới đang tiến tới Việt Nam theo làn sóng dân chủ 4.0, tương tự với làn sóng "thoát ách thực dân" đã tiến vào Việt Nam vào dịp tháng 3/1945 đó. Tiếc rằng Nội các Trần Trọng Kim của "Đế quốc Việt Nam" thời đó dù có đại đa số chính trị gia khoa bảng và yêu nước, nhưng không gồm đủ nhiều chính trị gia trí thức / nhà chính trị trí thức ; đến nỗi đã đánh mất chủ quyền toàn dân và chủ quyền quốc gia vào tay một nhóm tay sai Cộng sản Quốc tế yếu kém hơn chính phủ Trần Trọng Kim nhiều lần, vào tháng 8/1945 ô nhục đó.

Việt Nam hiện có một đội ngủ giáo sư  tiến sĩ đông đúc (không phải những cấp lãnh đạo mua bằng cấp và chức vụ, hay dùng bằng cấp giả của chế độ cộng sản Việt Nam), nhưng không bao giờ lên tiếng về những vấn đề chính trị và xã hội của đất nước, nên đội ngủ này không phải là một tấng lớp chính trị gia trí thức. Ngược lại một người công nhân hay nông dân mà có hiểu biết và thái đội rõ ràng trên các vấn đề chính trị - xã hội thì đó là một trí thức chính trị. Trí thức chính trị không liên quan gì đến bằng cấp và tư cách trí thức chính trị chỉ đặt ra với những người có quan tâm đến chính trị và xã hội.

Hơn nữa, Đảng cộng sản Việt Nam từ sau cuộc "Cách mạng tháng 8" (1945) chỉ là một bộ phận của phong trào quốc tế cộng sản (Đệ tam Quốc tế cộng sản) - vốn đã bị đào thải sau năm 1991 khi đầu tàu của phong trào này là Liên Xô tự sụp đổ - được xem như là một giải pháp quốc tế cộng sản cho vùng Đông Dương bao gồm ba nước Việt, Miên, Lào. Giải pháp này trong suốt gần một thế kỷ qua đã tự chứng minh rằng nó không mang lại bất cứ tính chất trí thức nào cho giới "chính trị trí thức", bởi vì cốt tủy của phong trào quốc tế cộng sản là "liên minh Công Nông" chứ không phải trí thức. Ngày nay ai cũng biết tư tưởng Mác-Lênin là sai lầm và độc hại nhưng hơn nửa sau thế kỷ trước nó đã lôi kéo được sự ủng hộ của nông dân Việt Nam và nông dân Trung Quốc, vốn là những người có bản chất thật thà nhưng ít học và hủ lậu. Cho dù Đảng cộng sản Việt Nam đã thêm từ ngữ "Trí" vào liên minh này để cho ra một sản phẩm mới là liên minh "Công Nông Trí" của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam kể từ năm 1986. Nhưng, như đã chứng minh ở phần trên, chế độ cộng sản Việt Nam không hề có "Trí" trong nền sinh hoạt chính trị xã hội chủ nghĩa, mà thực sự chỉ có sự lạm phát thành hần khoa bảng xã hội chủ nghĩa.

Với tất cả những bối cảnh khó khăn tại quốc nội, trên trường quốc tế, và chính trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam, chế độ cộng sản Việt Nam rõ ràng không phải là cơ chế đủ khả năng giải quyết hiện trạng bế tắt của Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam do đó không còn lý do gì để tồn tại.

Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay chỉ là một phiên chợ chiều nho nhỏ của quá khứ độc tài toàn trị nên bắt buộc phải ra đi, trong khi lý tưởng Dân Chủ Đa Nguyên đang là làn sóng dân chủ thứ tư 4.0, hào hùng hơn cả làn sóng dân chủ 3.0 của thế kỷ 20, đang được chuyên chở bởi trào lưu tiến hóa khá mạnh của thế giới đến một tương lai dân chủ, tự do và nhân quyền cho nhân loại. Nelson Mandela từng tóm tắt lại thành một nguyên tắc rất cô đọng mà súc tích như sau : "Hãy để sự lựa chọn của bạn phản ánh niềm hi vọng của bạn, chứ không phải nỗi sợ hãi của bạn".

Vì các l trên, Việt Nam đang cấp thiết cần đến sự xuất hiện của một môi trường "trí thức chính trị", và chính trị gia trí thức để có thể chuyển đối nền móng chính trị phong kiến Khổng giáo hơn ngàn năm qua thành một mô hình mới - nền "chính trị trí thức" - hội nhập vào kỷ nguyên mới của thế giới trong thế kỷ 21 này (9).

Môi trường "trí thức chính trị" đó phù hợp với kỷ nguyên tự do - dân chủ - nhân quyền của nhân loại, hiện đang hé mở sau hơn một năm liên bang độc tài toàn trị Nga gây cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine.

Đan Tâm

(15/06/2023)

Tham khảo :

1. Việt Hoàng, Chúng ta có quyền tin vào tương lai đất nước, Thông Luận, 22/01/2023.

2. Nguyễn Văn Xuân, Phong trào Duy Tân, Nhà xuất bản Lá Bối, 1969.

3. "Từ Fukuzawa Yukichi nhìn về Nguyễn Trường Tộ", Tia Sáng, 23/06/2010.

4. Văn Như Tước, Đào Duy Từ - một nhân tài đặc biệt của quê hương Thanh Hóa, txnghison.thanhhoa.gov.vn, 01/12/2020

 và https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0o_Duy_T%E1%BB%AB .

5. Chiem Nguyen, The Thoughts of Nguyen Trai – A Vietnamese State's Man in the 15th Century, ResearchGate.net, December 2017.

6. Trần Ngọc Ánh, "Đại Nam chính biên liệt truyện" ghi lại (nguyên văn), 2009 ; "Ngoại giao Tây Sơn – Những tư tưởng đặc sắc và bài học lịch sử", Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 1 (30), 2009.

7. Trần Chí Trung, Bản sắc ngoại giao Việt Nam : Một vài suy ngẫm nhìn từ lịch sử dân tộc, Nghiên Cứu Quốc Tế, 29/08/2021.

8. Nguyễn Gia Kiểng, Đảng cộng sản Việt Nam bước vào tuổi 94, ngoan cố tới cùng ?Thông Luận, 03/02/2023

9. Việt Hoàng, Đất nước đang cần gấp một tầng lớp trí thức chính trị, Thông Luận, 16/02/2023.