The Economist: Việt Nam có thể giàu nếu chỉ dựa vào xuất khẩu, FDI?

Một nền kinh tế lành mạnh phải dựa trên động lực chính là thị trường nội địa.

Ca ngợi Việt Nam thoát nghèo nhờ thương mại, FDI nhưng The Economist đặt vấn đề: "Liệu chúng có thể giúp Việt Nam giàu có được không".

Tiêm vaccine Covid-19 diện rộng cho người dân tại Hà Nội ngày 4/8. Ảnh: Giang Huy
Tiêm vaccine Covid-19 diện rộng cho người dân tại Hà Nội ngày 4/8. Ảnh: Giang Huy


Từng gây ấn tượng với thế giới về khả năng chống dịch vào năm ngoái, Việt Nam giờ ở giữa đợt bùng phát dịch Covid-19 tồi tệ nhất cho đến nay. Nhiều địa phương đang trong tình trạng giãn cách nghiêm ngặt. Một loạt các nhà máy, từ nơi sản xuất giày cho Nike đến sản xuất điện thoại thông minh cho Samsung, đều hoạt động chậm lại hoặc đóng cửa, làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tuy nhiên, việc hội nhập với nền sản xuất toàn cầu vẫn giúp nền kinh tế Việt Nam duy trì trong thời kỳ đại dịch. Năm 2020, GDP tăng 2,9% ngay cả khi hầu hết quốc gia đều ghi nhận suy thoái sâu. Bất chấp đợt bùng phát mới nhất, năm nay có thể chứng kiến tốc độ tăng trưởng nhanh hơn. Dự báo mới nhất của Ngân hàng Thế giới, được công bố vào ngày 24/8, kỳ vọng mức tăng 4,8% năm 2021.

Các con số này cho thấy lý do thực sự để ấn tượng với Việt Nam. Sự cởi mở đối với thương mại và đầu tư đã khiến nước này trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng. Và điều đó đã tạo ra tăng trưởng đáng kể và kéo dài. Việt Nam là một trong 5 quốc gia phát triển nhanh nhất thế giới trong 30 năm qua, hơn các nước láng giềng.

Kỷ lục của họ không gián đoạn như các thị trường cận biên khác mà là tăng trưởng ổn định. Chính phủ còn tham vọng hơn, muốn Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, một nhiệm vụ đòi hỏi phải tăng trưởng ở mức 7% một năm. Bí quyết thành công của Việt Nam là gì - và có thể duy trì được không?

Việt Nam thường được so sánh với Trung Quốc vào những năm 1990 hoặc đầu những năm 2000, không phải không có lý do. Bên cạnh việc tương đồng nhất định về chế độ chính trị, cả hai đều tập trung vào tăng trưởng dựa vào xuất khẩu. Nhưng cũng có những khác biệt lớn.

Đầu tiên, ngay cả việc mô tả nền kinh tế Việt Nam là tập trung nhiều vào xuất khẩu cũng không đủ với việc họ bán hàng ra nước ngoài nhiều bao nhiêu. Thương mại hàng hóa của họ vượt quá 200% GDP. Rất ít nền kinh tế trên thế giới, ngoại trừ các quốc gia giàu tài nguyên nhất hoặc các thành phố chiếm ưu thế bởi thương mại hàng hải, đang hoặc đã từng thâm dụng thương mại như vậy.

Không chỉ mức độ xuất khẩu mà bản chất của các nhà xuất khẩu đã khiến Việt Nam khác với Trung Quốc. Thật vậy, mối liên hệ sâu rộng với chuỗi cung ứng toàn cầu và mức đầu tư nước ngoài cao khiến họ có vẻ giống Singapore hơn. Kể từ năm 1990, Việt Nam đã nhận được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trung bình trị giá 6% GDP mỗi năm, gấp hơn 2 lần mức toàn cầu - nhiều hơn nhiều so với Trung Quốc hay Hàn Quốc đã từng ghi nhận trong một thời gian dài.

Khi phần còn lại của Đông Á phát triển và mức lương ở đó tăng, các nhà sản xuất toàn cầu bị thu hút bởi chi phí lao động thấp và tỷ giá hối đoái ổn định của Việt Nam. Điều đó thúc đẩy sự bùng nổ xuất khẩu. Trong thập kỷ qua, xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước tăng 137%, trong khi xuất khẩu của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng 422%.

Nhưng khoảng cách ngày càng gia tăng giữa các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước đang đặt ra mối đe dọa cho sự phát triển của Việt Nam. Họ trở nên phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư và xuất khẩu của các công ty nước ngoài, trong khi các công ty trong nước hoạt động kém hiệu quả.

Các công ty nước ngoài có thể tiếp tục phát triển, cung cấp nhiều việc làm và sản lượng hơn. Nhưng việc họ có thể thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam bao xa là có giới hạn. Đất nước sẽ cần một khu vực dịch vụ năng suất và hiệu quả. Khi mức sống tăng lên, họ có thể trở nên kém hấp dẫn hơn với các nhà sản xuất nước ngoài theo thời gian và người lao động sẽ cần những cơ hội khác.

Một phần của lực cản đối với các doanh nghiệp trong nước đến từ các doanh nghiệp nhà nước. Tầm quan trọng của họ đối với hoạt động và việc làm của đất nước đã bị thu hẹp. Nhưng họ vẫn có tác động lớn đến nền kinh tế thông qua vị trí ưu đãi của họ trong hệ thống ngân hàng, cho phép họ vay với giá rẻ.

Các ngân hàng bù đắp cho khoản cho vay không hiệu quả đó bằng cách tính lãi suất cao hơn cho các công ty trong nước khác. Trong khi các công ty nước ngoài có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ở nước ngoài, lãi suất cho vay ngân hàng trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam bình quân đã lên tới 10,25% trong năm ngoái. Nghiên cứu gần đây của các học giả tại Trường Kinh tế London cũng cho thấy rằng mức tăng năng suất trong 5 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007 sẽ cao hơn 40% nếu không có các doanh nghiệp nhà nước.

Để thúc đẩy khu vực tư nhân, chính phủ muốn nuôi dưỡng các tập đoàn tương tự như chaebol của Hàn Quốc hoặc keiretsu của Nhật Bản, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính phủ đang "cố gắng tạo ra những nhà vô địch quốc gia", Lê Hồng Hiệp, Thành viên cấp cao Viện ISEAS-Yusof Ishak (Singapore), bình luận.

Nhưng nuôi dưỡng "các nhà vô địch quốc gia" trong khi vẫn cởi mở với đầu tư nước ngoài không phải là điều dễ dàng. Vào tháng 8, chính phủ cho biết đang xem xét khôi phục việc giảm 50% lệ phí trước bạ đối với ôtô sản xuất trong nước.

Tuy nhiên, trở thành thành viên của CPTPP cũng như một loạt các thỏa thuận thương mại và đầu tư khác, có nghĩa là Việt Nam không thể dành ưu đãi chỉ cho các nhà sản xuất trong nước. Họ cũng phải mở rộng hỗ trợ cho các công ty nước ngoài sản xuất ôtô tại Việt Nam.

Việt Nam cũng có thể hy vọng dựa vào một nguồn tăng trưởng khác. Sự bùng nổ kinh tế đã khuyến khích cộng đồng kiều bào đầu tư, hoặc thậm chí trở về nhà. "Không có nhiều nền kinh tế đang trải qua điều tương tự như Việt Nam", Andy Ho của VinaCapital, một công ty đầu tư với tài sản 3,7 tỷ USD, đánh giá.

Gia đình Andy Ho chuyển đến Mỹ vào năm 1977, nơi ông được đào tạo và làm việc trong lĩnh vực tư vấn và tài chính và trở về nước vào năm 2004. Việt Nam giờ trở thành một trong những quốc gia nhận kiều hối lớn nhất trên thế giới, với 17 tỷ USD vào năm ngoái, tương đương 6% GDP.

Đặt Covid-19 sang một bên, không thể không hứng khởi về Việt Nam, khi họ dường như đang trong giai đoạn đầu của việc phấn đấu thành một phép màu Đông Á. Nhưng không có quốc gia nào trở nên giàu có chỉ nhờ kiều hối.

Khi Việt Nam phát triển, việc duy trì tăng trưởng nhanh chóng từ xuất khẩu của các công ty nước ngoài sẽ ngày càng trở nên khó khăn, và căng thẳng giữa việc mở cửa cho đầu tư nước ngoài và thúc đẩy "các nhà vô địch quốc gia" sẽ dần gay gắt hơn. Tất cả những điều đó khiến cho việc cải cách khu vực tư nhân trong nước và hệ thống tài chính là điều tối quan trọng. Nếu không có nó, mục tiêu cao cả của chính phủ là làm giàu nhanh chóng có thể vượt quá tầm với.

Nguồn tin Vnexpress, dịch từ The Economist