IDS: Nhân nghe một tiếng kêu ai oán (Nguyễn Gia Kiểng)
LTS: Nhân cuộc bầu cử quốc hội Việt Nam khóa 15 vừa kết thúc với việc không một ứng cử viên độc lập thật sự nào được trúng cử, ví dụ ông Lương Thế Huy (Hà Nội) chúng tôi xin đăng lại bài viết cũ của ông Nguyễn Gia Kiểng về sự kiện Viện Nghiên cứu Phát triển IDS bị giải tán cách đây 11 năm. Sự thật là không thể nào thay đổi được ĐCSVN từ bên trong bằng cách hợp tác với họ. Cách duy nhất là nên tìm hiểu và ủng hộ cho các tổ chức chính trị dân chủ thực sự.
(…) Toàn viện IDS và từng
thành viên đã hết sức đề cao tinh thần trách nhiệm công dân, ý thức kỷ luật và
thiện chí, nhưng những cố gắng đó đã không được đáp ứng.
Trước tình hình như vậy, với
một quyết định hạn chế đến mức vô lý quyền nghiên cứu của một tổ chức khoa học,
Viện Nghiên Cứu Phát Triển IDS không thể tiếp tục hoạt động theo sứ mệnh đã xác
định trong mục tiêu ghi vào Điều lệ của mình. Chấp nhận hoạt động theo Quyết
định 97, viện IDS và các thành viên sẽ không thể làm đúng tinh thần của Nghị
quyết Trung ương Đảng về trí thức mới ban hành, đồng thời không thể làm tròn
trách nhiệm công dân và nghĩa vụ người trí thức của mình.
Ngày 14-09-2009, Hội đồng Viện
IDS đã họp phiên toàn thể, quyết định tự giải thể để biểu thị thái độ dứt khoát
của Viện đối với Quyết định 97 (…)
Trên đây là một đoạn trong phần cuối của Tuyên
bố tự giải thể của Viện Nghiên Cứu Phát Triển IDS (Institute for Development
Studies). IDS tự giải thể để phản đối quyết định 97 của chính quyền cộng sản
cấm các tổ chức nghiên cứu công bố những phản biện trước khi được nhà nước
thông qua. Nghe thật là ai oán. Các thành viên IDS (*) không phải là những
người đối kháng. Họ không đòi đa nguyên, đa đảng, nhân quyền. Chưa bao giờ có
ai trong họ bày tỏ sự bất bình trước những vụ án chính trị thô bạo. Họ không
quan tâm đến phong trào dân chủ và cũng không đánh giá cao những người dân chủ.
Họ chọn con đường phục vụ chế độ và cố gắng để cải tiến nó. Họ tự đánh giá là
những trí thức lớn, điều này có phần đúng, và họ đã chọn làm những trung thần
của chế độ. Họ tôn trọng Đảng Cộng Sản và muốn phục vụ chế độ một cách thông
minh. Vậy mà họ đã bị chèn ép họ đến mức phải tuyên bố tự giải thể.
Phải nói ngay sự thê lương ai oán là ở chỗ muốn
phục vụ bằng cách mà mình thấy là hiệu lực nhất, với ý thức kỷ luật và thiện
chí mà không được, nghĩa là một thiện chí bị bóp nghẹt oan uổng, chứ không phải
vì hoàn cảnh gian truân của các thành viên. Các vị này là những người thoải mái
nhất nước hiện nay. Họ được chế độ ưu đãi - uy tín của họ chủ yếu do địa vị mà
họ đã có trong chế độ - nhưng lại không bị mang tiếng là gian tham như hầu hết
các cấp lãnh đạo, hơn thế nữa còn được mọi người, kể cả đối lập dân chủ, đánh
giá cao. Có thể do bản chất lương thiện, có thể vì thiếu quả quyết, họ đã không
đạt tới được những chức vụ lãnh đạo hàng đầu trong chế độ cộng sản, nhưng họ
vẫn là những người may mắn nhất nước hiện nay, thành công cả về vật chất cũng
như tinh thần, có chỗ đứng ưu đãi trong chế độ cộng sản và cũng sẽ có chỗ đứng
ưu đãi mai sau nếu một chế độ dân chủ được thành lập. An toàn và thoải mái
trong mọi trường hợp.
Nhưng sự giải thể của IDS có thực sự là một
thiệt hại không thì vẫn còn là một vấn đề cần được thảo luận.
Một số thành viên của Viện IDS
IDS tiêu biểu cho khuynh hướng vận động thay đổi
từ trong lòng chế độ bằng cách chấp nhận và hợp tác, mà sau đây ta gọi tắt là
“khuynh hướng IDS” dù IDS chỉ là một nhóm trong khối người rất đông đảo này.
Đây là một khuynh hướng rất mạnh, mạnh hơn nhiều so với khuynh hướng vận động
dân chủ bằng cách đối đầu trực diện. Kẻ viết bài này thuộc khuynh hướng đối đầu
trực diện và có thể làm chứng cho sức thu hút của khuynh hướng này. Có rất
nhiều người trước đây chống cộng kịch liệt và từng lên án những người chủ
trương hoà giải dân tộc và bất bạo động là nhu nhược, là đồng loã với cộng sản,
bây giờ cũng theo khuynh hướng IDS. Theo họ đối đầu trực diện là vô ích, có khi
còn có hại vì chỉ khiến đảng cộng sản cứng rắn thêm, họ nói: Mỗi lần nghe nói
như vậy tôi đều không thảo luận thêm vì thấy có nói gì cũng hoàn toàn vô ích,
người trước mặt mình chỉ nói chứ không hề muốn nghe, anh ta đã chọn lựa rồi và
sẽ không thay đổi lập trường. Một bản tính của con người nhưng đặc biệt mạnh
nơi người Việt Nam là kết luận trước rồi sau đó mới biện luận để bảo vệ một kết
luận đã có sẵn, đến từ những động cơ cá nhân. Trong những trường hợp như vậy
thảo luận không ích lợi gì. Phải nói một cách rất thẳng thắn rằng sức thu hút
của khuynh hướng IDS là ở chỗ nó là một chọn lựa tiện nghi và an toàn chứ không
phải vì nó đúng. Những người theo khuynh hướng này không muốn thảo luận vì họ
không có lập luận chính xác nào.
Trước hết, tuy chủ trương phải hội nhập vào chế
độ và hợp tác với nó để thay đổi nó từ bên trong nhưng họ lại không nói thay
đổi để tiến tới cái gì. Nếu họ nói là thay đổi để tiến tới dân chủ đa nguyên đa
đảng thì họ sẽ bị coi là đối lập và sẽ bị loại trừ ngay. Ngược lại họ cũng
không thể công khai bênh chính quyền cộng sản vì nó bạo ngược. Họ làm như không
có ý kiến. Nhưng không có ý kiến trên vấn đề dân chủ hoá đất nước là tự triệt
thoái khỏi cuộc tranh luận nòng cốt nhất hiện nay. Muốn thuyết phục được ai thì
ít nhất cũng phải cho người đó biết mình muốn gì. Cái nhập nhằng của khuynh
hướng này là ở chỗ nó bắt cá hai tay, đối với những người dân chủ nó muốn được
coi như một khuynh hướng dân chủ hoá trong khi đối với chính quyền cộng sản nó
muốn được nhìn như một khuynh hướng ủng hộ và hợp tác.
Phải nói một cách thẳng thắn, một lần cho tất
cả, rằng lập trường hội nhập và hợp tác để thay đổi từ bên trong tự nó là một
sai lầm. Tiến trình chuyển hoá hoàn toàn không diễn ra như thế. Hợp tác với một
chế độ trước hết đóng góp củng cố chế độ thay vì làm thay đổi chế độ. Những
người muốn dân chủ hoá chế độ chỉ là một thiểu số nhỏ trong giới lãnh đạo đảng
và nhà nước cộng sản và hầu như vắng mặt trong các cơ quan quyền lực cao nhất,
tiếng nói của họ lại càng yếu, yếu đến độ họ không dám lên tiếng. Ngôn ngữ và
nếp sinh hoạt trong bộ máy đảng và nhà nước cộng sản là ngôn ngữ và nếp sinh
hoạt độc tài chuyên chính. Như vậy, cứ giả thử là những người thuộc khuynh
hướng IDS thực sự muốn đất nước chuyển hoá về dân chủ, một điều không có gì bảo
đảm, thì họ tranh thủ được ai khi hội nhập và hợp tác với chế độ? Tranh thủ
những người lãnh đạo thì chắc chắn là họ không dám, còn rỉ tai những đảng viên
cấp dưới thì chỉ là vô ích vì đa số đã chấp nhận dân chủ rồi nhưng bị khống
chế. Cuối cùng chính họ, chứ không phải chế độ, bị biến chất. Quan sát cá nhân
của tôi rất rõ rệt: tất cả những người mà tôi biết đã một thời đấu tranh cho
dân chủ rồi chọn khuynh hướng này sau một thời gian đều mất hết ý chí đấu
tranh, không có ngoại lệ nào.
Khoa sinh vật học trình bày sự tiến hoá của một
chủng loại như sau: một nhóm nhỏ của một chủng loại tự cô lập rồi thay đổi dần
do điều kiện thiên nhiên; nhóm này vì phù hợp với môi trường dần dần phát triển
trong khi phần còn lại của chủng loại tàn lụi đi vì không còn phù hợp, sau cùng
thiểu số trở thành đa số và chủng loại chuyển hoá. Cô lập lúc ban đầu là điều
kiện bắt buộc, nếu không những biến đổi tình cờ xuất hiện sẽ bị tiêu hoá nhanh
chóng trong cả khối lớn của chủng loại. Và vượn vẫn là vượn chứ không thể tiến
hoá thành người. Một cách tương tự trong khoa học xã hội các nhà nghiên cứu
cũng đã vạch ra tiến trình thay đổi của một xã hội: một thiểu số nhìn thấy một
mô hình xã hội khác đã có can đảm xác nhận sự khác biệt và chấp nhận bị cô lập
để phản bác cơ chế hiện hành. Trong nhiều trường hợp họ bị tiêu diệt nhưng cũng
có những trường hợp họ trụ được và tiếp tục phát triển, thu hút được quần chúng
và cả những người thuộc cơ chế, rồi trở thành đa số và áp đặt sự thay đổi.
Những thay đổi lớn của nhân loại và của các quốc gia đều đã diễn ra như thế.
Phật Thích Ca đã phải bỏ hoàng cung, Giêsu Kitô đã chết thảm khốc trong sự thù
ghét của đám đông, và họ đã thay đổi thế giới. Nếu không có những người hô to
trên đoạn đầu đài “tự do hay là chết!” thì cũng không có các chế độ dân chủ.
Mọi thay đổi lớn đều đã là sản phẩm của những con người dũng cảm dám khẳng định
sự khác biệt, trong nhiều trường hợp với giá đắt. Điều này có lẽ khuynh hướng
IDS cần nghiên cứu thêm.
Giáo sư Hoàng Tụy, Chủ tịch Hội đồng Viện Nghiên cứu Phát triển, viết tắt là IDS, ông cũng là người có đóng góp rất lớn cho nền giáo dục Việt Nam
IDS đã sai lầm về nguyên tắc khi hy vọng được
phép phản biện. Hoặc phản biện hoặc không, nhưng nếu đã phản biện thì không cần
chờ đợi được cho phép. Phản biện thể hiện quyền tự do suy nghĩ và phát biểu, mà
quyền là điều mình có và phải hành xử, và tự do là điều mà người ta phải giành
lấy chứ không thể xin. Hegel, sư phụ của Marx, mô tả cuộc chiến đấu giành tự do
như là cuộc chiến đấu sống còn trong đó những kẻ không dám liều chết để giành
tự do đương nhiên xứng đáng với thân phận nô lệ. Ngày nay loài người đã văn
minh hơn so với thế kỷ 19 của Hegel và Marx, có lẽ người ta không còn phải đánh
đổi mạng sống để có tự do nhưng chắc chắn là vẫn phải chấp nhận để trả một giá nào
đó. Tự do là điều quý báu nhất vì nó định nghĩa con người, vì thế người ta phải
giành lấy để được là con người đúng nghĩa chứ không thể chờ đợi để được ban
phát. Cũng đừng nên quên rằng đặc tính của các chế độ bạo ngược là chúng… bạo
ngược. Chúng không chấp nhận sự phản đối từ những cái đầu đã cúi xuống. Đã chấp
nhận quan hệ xin – cho thì cũng phải chấp nhận cái hệ luận cay đắng của nó là
khi mình xin thì người ta có thể không cho. Thái độ đứng đắn duy nhất trước
những kẻ cướp đoạt tự do của mình là dứt khoát phản kháng; phản kháng được hay
không là một chuyện khác nhưng vẫn phải phản kháng. Điều quan trọng là thái độ.
IDS cũng đã sai lầm về mặt tri thức. Họ muốn
nghiên cứu về phát triển trong khuôn khổ một chế độ độc tài đảng trị. Họ muốn
“làm đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương Đảng về trí thức”. Cần nhấn mạnh
từ «phát triển». Phát triển không phải chỉ là tăng trưởng. Khoảng cách giữa hai
khái niệm là phẩm chất. Nhưng phát triển cái gì? Phát triển một quốc gia –nghĩa
là một cộng đồng của những con người- hay phát triển một trại chăn nuôi? Chắc
chắn là anh em IDS muốn phát triển đất nước Việt Nam. Nhưng phát triển là một
hiện tượng đã được nghiên cứu và tranh cãi trong suốt một thế kỷ qua và đã có
kết luận dứt khoát dựa trên cả lý luận lẫn kinh nghiệm của các dân tộc. Kết
luận đó là phát triển phải đi đôi với tự do và dân chủ. Muốn “nghiên cứu phát
triển” trong khuôn khổ một chế độ toàn trị là biểu lộ một sự thiếu hiểu biết bi
đát về một bài toán quan trọng đã được giải đáp. Chẳng khác gì muốn phát minh
lại bánh xe.
Không phải chỉ có anh em IDS mà nhiều trí thức
Việt Nam khác, kể cả nhiều người có trình độ cao và chống cộng kịch liệt, vẫn
còn lấn cấn về điểm này. Một thí dụ là ngay khi đang viết dở dang bài này,
trong giờ cơm tối, tôi tình cờ đọc một bài trên báo Ngày Nay (**) của tác giả
Trần Gia Phụng, một sử gia có uy tín với lập trường chống cộng rất dứt khoát,
trong đó có đoạn viết: “Giá trị của một chế độ, dầu độc tài hay đa đảng, quan
trọng ở chỗ hiệu năng của chính quyền trong việc chăm lo hạnh phúc cho toàn
dân”. Đây chính là lập luận của các chế độ độc tài để từ chối dân chủ như là
một điều không cần thiết. Vấn đề là ở chỗ các chế độ độc tài không thể đem lại
“hạnh phúc” cho nhân dân, trừ khi ta hài lòng với “hạnh phúc” của một đàn cừu,
một hạnh phúc không thể đi xa ngay cả về mặt vật chất. Không phải là một sự
tình cờ mà các nước dân chủ lâu năm đều phồn vinh và cũng không phải là một sự
tình cờ mà các chế độ độc tài đều chỉ đem đến sự nghèo khổ và chỉ đạt một vài
tiến bộ sau khi nới lỏng ách kìm kẹp. Sự lấn cấn này tố giác sự hụt hẫng của
trí thức Việt Nam và là một trong những nguyên nhân chính khiến cuộc vận động
dân chủ không đạt được khí thế đáng lẽ phải có. Nó có nguyên nhân từ khả năng
to lớn của chính con người. Con người xét cho cùng tinh vi hơn mọi bộ máy và có
thể làm nên những thành quả kinh ngạc. Các bạo chúa đã hiểu điều này và đã từng
khai thác tối đa. Họ đã bắt người dân xây những đền đài, lăng tẩm, cung điện
nguy nga, những kim tự tháp, Vạn Lý Trường Thành v.v. Những công trình này đã
có tác dụng trấp áp tinh thần và gây sự thán phục, nhưng sau cùng chúng vẫn chỉ
có một tác dụng là làm kiệt quệ đất nước. Khi các chế độ độc tài đạt tới một
mức độ tăng trưởng cao, như trường hợp Trung Quốc trong ba thập niên qua, thì
phải hiểu rằng bù lại chúng đã tạo ra một sự thiệt hại hay mất quân bình nào đó
cho xã hội, con người hoặc môi trường, và sẽ thất bại sau một thời gian tạo ảo
tưởng thành công. Phát triển bao hàm tăng trưởng nhưng tăng trưởng không phải
là phát triển. Liên hệ mật thiết giữa dân chủ và phát triển là điều đã được
chứng minh bằng cả lý luận lẫn thực tế. Liên hệ càng hiển nhiên trong lúc này
bởi vì chúng ta đang sống trong kỷ nguyên tri thức trong đó ý kiến và sáng kiến
là những yếu tố quyết định mức độ phát triển, chỗ đứng và sự vinh nhục của mỗi
dân tộc, nhưng ý kiến và sáng kiến chỉ có thể nẩy nở nơi nhưng con người tự do,
trong những xã hội dân chủ. Nghiên cứu phát triển trong khuôn khổ một chế độ
độc tài chỉ có thể là những nghiên cứu vụn vặt, khi không vớ vẩn.
Sự ngộ nhận càng đáng tiếc khi nó xuất hiện
trong một nhóm người được coi là có trình độ cao như trường hợp IDS. Có thể là
có những điều mà các thành viên IDS biết nhưng nghĩ rằng chưa tiện nói ra nhưng
cũng có những ngộ nhận quá lộ liễu và không thể bỏ qua. Thí dụ như một thắc mắc
trong tuyên bố giải thể của IDS: “Tại sao trong nhà nước pháp quyền theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, một văn bản pháp quy có tầm quan trọng như vậy lại có
thể được thiết kế như một cái bẫy và để ngỏ khả năng cho việc vận dụng cái bẫy
đó?”. Hình như anh em IDS nghĩ rằng việc vận dụng pháp luật một cách tuỳ tiện
chỉ có thể có trong những chế độ khác! Thực tế đây là một đặc tính của những
chế độ xã hội chủ nghĩa. Tại sao lại ngạc nhiên? Sự giải thể của IDS là tự
nhiên.
Một đặc tính khác của các chế độ toàn trị là
chúng chủ trương bóp nghẹt xã hội dân sự và không chấp nhận các kết hợp của
người dân ngay cả nếu gây bất mãn. Các chính quyền độc tài không cần người dân
yêu chúng, chúng chỉ cần người dân đừng yêu nhau và kết hợp với nhau để có sức mạnh,
để chúng dễ khống chế một đám đông cô đơn. Sự giải thể này cũng cần thiết để
chấm dứt một sự nhập nhằng đã cản trở cuộc vận động dân chủ. Nó chứng tỏ sự phá
sản của khuynh hướng phục tùng và hợp tác để thay đổi từ bên trong. Sự hiện
diện của khuynh hướng này đã có tác dụng khiến những người dân chủ đối đầu trực
diện với chế độ một cách ôn hoà bị nhìn một cách oan sai như là cực đoan hoặc
không thực tiễn và do đó ít được hưởng ứng. Nhưng sự ôn hoà không bao giờ bắt
buộc phải hy sinh những giá trị nền tảng. Bao dung không có nghĩa là phải cúi
đầu chấp nhận cả những điều bạo ngược và vô lý. Chúng ta có thể không thù ghét
gì những người lãnh đạo cộng sản, không mong họ bị cảm cúm, con cái họ lêu
lổng; chúng ta cũng muốn họ có hạnh phúc và coi họ là đồng bào, là anh em nhưng
không phải vì thế mà chúng ta phải chấp nhận để họ ứng xử như một lực lượng
chiếm đóng, tự cho là đương nhiên có vai trò thống trị và coi phần còn lại của
dân tộc như những kẻ nô lệ chỉ được phép phục tùng vô điều kiện. Khi luật chơi
vô lý thì thái độ thực tiễn nhất là bác bỏ chứ không phải là play by the rule.
Bác bỏ được hay không là một chuyện khác nhưng ít nhất như thế chúng ta khẳng
định vị thế con người, và phẩm giá, của chúng ta. Có những điều không thể nhân
nhượng. Sự giải thể của IDS ít nhất cũng đóng góp đem lại sự minh bạch cho cuộc
vận động dân chủ.
Bây giờ Viện Nghiên Cứu Phát Triển IDS không còn
nữa nhưng các thành viên vẫn có thể cùng suy nghĩ với nhau trên một số vấn đề.
Một trong những vấn đề đó có thể là ý nghĩa triết học của khái niệm “quyền”. Có
ít nhất ba khía cạnh cần được lưu ý.
Thứ nhất, quyền thuộc về luật và vì thế nó phải
thẳng thắn và dõng dạc, nó không thể chấp nhận thoả hiệp, nếu không nó không
còn là quyền.
Thứ hai, quyền luôn luôn đối nghịch với thực
tại, người ta viện dẫn quyền để phản bác một thực tại vô lý; nhân danh thực tại
để hy sinh quyền là một thái độ đầu hàng hèn nhát; quyền đòi hỏi nhìn thực tại
với con mắt của con người chứ không cho phép nhìn con người từ thực tại; sự
phản kháng là cốt lõi của quyền.
Thứ ba, quyền không thể chấp nhận sự vô lý; nó
là thành quả của trí tuệ và nó không thể tách ra khỏi sự hợp lý vì trí tuệ là
nền tảng chính đáng của nó.
Những gì đúng với khái niệm quyền lại càng đúng
với những quyền con người bởi vì đó là những quyền bắt buộc nhất. Trong cuộc
tranh đấu cho nhân quyền, cũng là tranh đấu cho dân chủ, lập trường đúng nhất
là không nhân nhượng, là đòi hỏi thực hiện tức khắc và trọn vẹn các quyền tự do
cơ bản. Không có gì là quá khích, quyền con người chỉ là qui luật tự nhiên của
sự sống. Tôi có cảm tưởng rằng những người cùng khuynh hướng với IDS, và anh em
IDS nói riêng, có lúc đã quên, hoặc coi nhẹ, một số khái niệm nền tảng. Tôi hy
vọng là mình đã lầm.
Nguyễn Gia Kiểng
(2009)
(*) Hoàng Tụy (chủ tịch hội
đồng IDS), Nguyễn Quang A (viện trưởng), Phạm Chi Lan (phó viện trưởng), Phan
Đình Diệu, Lê Đăng Doanh, Vũ Kim Hạnh, Chu Hảo, Phạm Duy Hiển, Vũ Quốc Huy,
Tương Lai, Phan Huy Lê, Nguyên Ngọc, Trần Đức Nguyên, Huỳnh Sơn Phước, Trần
Việt Phương, Nguyễn Trung.
(**) Trần Gia Phụng, «Đảng
CSVN nên kiện thư khố Pháp và tác giả Hoàng Tranh», Ngày Nay, Houston, số 652,
ngày 15 tháng 9, 2009.