Mỹ tìm kiếm gì ở vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương?

Chỉ trong vòng chưa đầy một tuần, Hoa Kỳ cùng các đồng minh châu Á lần lượt có cuộc họp quan trọng : Thượng đỉnh Diễn đàn An ninh không chính thức bốn bên – QUAD (Bộ Tứ) ngày 12/03/2021, rồi hai cuộc họp cấp cao 2+2 Quốc Phòng và Ngoại Giao với Nhật Bản và Hàn Quốc. Vậy, Mỹ tìm kiếm gì tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương ? 

Cuộc họp 2+2 Quốc Phòng và Ngoại Giao giữa Mỹ và Nhật Bản ngày 16/3/2021 tại Tokyo.
Cuộc họp 2+2 Quốc Phòng và Ngoại Giao giữa Mỹ và Nhật Bản ngày 16/3/2021 tại Tokyo. AP - Kiyoshi Ota

Ấn Độ - Thái Bình Dương chỉ là bọt biển ?

Tháng 03/2018, ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị từng tuyên bố rằng khái niệm « Ấn Độ - Thái Bình Dương rồi sẽ tan biến như bọt sóng biển ». Nhưng ngày nay, khái niệm này ngày càng hiện hữu trong nhiều phát biểu và chiến lược của nhiều quốc gia.

Câu hỏi đặt ra, khái niệm này có tự bao giờ ? Ông Pierre Grosser, giáo sư sử học về quan hệ quốc tế, trường đại học Khoa học Chính trị (Sciences Po), trên đài France Culture nhắc lại rằng ngay từ những năm 1960, Nhật Bản – lúc ấy bắt đầu dấn thân trở lại ở châu Á – đã từng sử dụng đến một thuật ngữ khá đặc trưng « châu Á – Thái Bình Dương ». Một sự kết hợp giữa châu Á « da vàng » và Thái Bình Dương « da trắng ». Mục tiêu là nhằm không tạo ra một cảm giác làm sống lại một trục châu Á « chống phương Tây ».

Trong suốt những năm 1980, Nhật Bản suy nghĩ đến những hình thức hợp tác kinh tế tại vùng này và đưa ra nhiều sáng kiến nhưng lại để Úc lên tuyến đầu trong những tuyên bố chính thức.

Vậy thì thuật ngữ Ấn Độ - Thái Bình Dương ra đời trong hoàn cảnh nào ? Nhà sử học, tác giả tập sách « L’histoire du monde se fait en Asie » (tạm dịch là Lịch sử thế giới được viết nên tại châu Á) giải thích tiếp :

« Thuật ngữ Ấn Độ - Thái Bình Dương được phát triển trong những năm 2000, trong một bối cảnh khá đặc biệt, nghĩa là người ta ngày càng nhận thức được mối liên hệ kinh tế giữa Trung Đông và châu Á – nhất là cho dầu hỏa, hay cuộc chiến chống hải tặc trên những con đường giao thông hàng hải. Rồi còn có tác động sóng thần tsunami năm 2004, bao trùm toàn khu vực. Về mặt lịch sử mà nói, chúng ta có thể nhận thấy điều này chẳng có gì là mới cả.

Nhưng kể từ những năm 2000, người ta có cảm giác là đối diện với Trung Quốc và nhất là trước các tham vọng thật sự hay giả định của Bắc Kinh tại Ấn Độ Dương, các nước Nhật Bản, Ấn Độ, rồi sau đó là Mỹ, và bây giờ là cả Liên Hiệp Châu Âu, cụ thể là Anh, Pháp đều nói về Ấn Độ - Thái Bình Dương với những định nghĩa khác nhau. Nước Pháp có một định nghĩa rộng hơn đi từ châu Mỹ Latinh đến tận châu Phi ».

Điều thú vị là Trung Quốc, ngay khi có thể, tránh sử dụng khái niệm « Ấn Độ - Thái Bình Dương » - một khái niệm mà Bắc Kinh cáo buộc là nhằm bao vây Trung Quốc, « chống Trung Quốc ». Sách Trắng Quốc Phòng Trung Quốc năm 2017 chỉ nói về một vùng « châu Á – Thái Bình Dương ». Mong muốn phớt lờ khái niệm Ấn Độ - Thái Bình Dương còn được khẳng định rõ trong tài liệu dành nói về chiến lược quốc phòng Trung Quốc công bố hồi tháng 7/2019, trong đó, cụm từ « Ấn Độ - Thái Bình Dương » hoàn toàn vắng bóng.

Nhưng điều đó không có nghĩa là Bắc Kinh không có một tầm nhìn chiến lược về khu vực này mà họ đang phát triển bằng cách kết nối hai vùng rộng lớn với nhau. Châu Á – Thái Bình Dương vẫn là khu vực ưu tiên, được xem như là vùng ảnh hưởng tự nhiên của Trung Quốc.

Với Ấn Độ Dương, những người theo trường phái học thuyết Alfred Mahan ở Trung Quốc rất rõ ràng : « Ai làm chủ Ấn Độ Dương thì kiểm soát châu Á ». Ông Alfred Thayer Mahan, là một nhà sử học, một sĩ quan hải quân và là một chiến lược gia của Hải quân Mỹ (US Navy) cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nổi tiếng với chủ trương tăng cường sức mạnh hải quân. Tác phẩm của ông được rất nhiều người biết đến là « The Influence of Sea Power Upon History, 1660-1783 » (phát hành năm 1890). Do vậy, theo nhà sử học Pierre Grosser, tầm nhìn « Ấn Độ - Thái Bình Dương » của Trung Quốc được diễn giải ở hai cấp độ :

« Ở mức thứ nhất, người ta gần như có học thuyết Monroe như người Mỹ đang có, nghĩa là thống trị vùng Đông Nam Á và những vùng biển sát cạnh nhau. Rồi ở cấp độ thứ hai, như chúng ta đã biết, là thông qua những con đường tơ lụa, phát triển hải quân đại dương để có thể triển khai xa hơn, nhằm bảo vệ các lợi ích ngày càng nhiều của Trung Quốc trên khắp thế giới. »

Mỹ có thể huy động mạng lưới liên minh ?

Sau bốn năm nhiệm kỳ Donald Trump hỗn loạn, làm sứt mẻ phần nào niềm tin của các đồng minh, Hoa Kỳ dưới thời tân tổng thống Joe Biden, ưu tiên khôi phục các mối quan hệ đó và tái tập trung vào cuộc cạnh tranh với Trung Quốc.

Chính sách này đầu tiên hết phải được tiến hành bằng các cuộc vận động ngoại giao thông qua những mạng lưới liên minh truyền thống của Mỹ, được thiết lập sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc năm 1953 như với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, và trong một chừng mực nào đó là với Úc và New Zealand.

Tuy chỉ là những liên minh song phương, không có kiểu đa phương như tại châu Âu, nhưng theo ông Pierre Grosser, những mối quan hệ kiểu này tại châu Á, một mặt cho phép Mỹ áp đặt các quan điểm của mình, và mặt khác Hoa kỳ vẫn có thể giám sát Nhật Bản không để nước này vực dậy về mặt quân sự, Hàn Quốc không tấn công Bắc Triều Tiên và ngăn cản Đài Loan tái chiếm lãnh thổ Hoa lục.

Kiểu quan hệ đồng minh này đặt ra những thách thức không phải là nhỏ, ít nhiều gây khó khăn cho Mỹ trong cuộc đọ sức với Trung Quốc ngày nay, theo như phân tích của nhà nghiên cứu về Quan hệ Quốc tế.

« Vấn đề của những mối liên minh này mà chuyến công du vừa qua với một mục tiêu quan trọng thúc đẩy cùng nhau hành động, là giữa Nhật Bản và Hàn Quốc có nhiều rắc rối lớn. Bởi vì Hàn Quốc trong khoảng gần 10 năm từng bị Nhật Bản đô hộ với những ký ức lịch sử nặng nề như vấn đề « gái giải sầu », cho đến giờ vẫn còn gây bất đồng giữa hai nước.

Nhưng đến những năm 2000, và kể từ năm 2007, ý tưởng QUAD xuất hiện, nghĩa là cùng hợp sức với nhau không những với Úc và Nhật Bản mà có cả Ấn Độ nữa. Chính vì vậy mà Trung Quốc có cảm giác như là bị bao vây. Vì sao ? Bởi vì, Hoa Kỳ đã tìm cách xích lại gần Ấn Độ. Về mặt lịch sử, Ấn Độ chưa bao giờ là bạn của Mỹ thậm chí còn liên kết với Liên Xô vào năm 1971.

Ở đây người ta thấy rõ ý đồ sâu xa của Mỹ. Nhật Bản bắt đầu chú ý đến khả năng mở rộng ảnh hưởng trong khu vực. Biến số lớn ở đây là người ta sẽ đi đến đâu với QUAD. Đây là lần đầu tiên có cuộc họp ở cấp độ lãnh đạo Nhà nước bởi vì thông thường chỉ là cuộc gặp giữa các ngoại trưởng. Nhưng tôi không nghĩ là Bộ Tứ có thể trở thành một liên minh chính thức bởi vì Ấn Độ sẽ không tham gia vào liên minh chính thức đó. »

Ông Pierre Grosser lưu ý, trong cuộc đọ sức mới này, Hoa Kỳ khó thể lập mặt trận chung theo kiểu truyền thống như thời Chiến Tranh Lạnh ở châu Âu, do các nước lệ thuộc nhiều vào Trung Quốc về kinh tế.

« Thế nên người ta mới có một số lượng lớn các thỏa thuận chiến lược như Việt Nam chẳng hạn, vừa phụ thuộc một phần kinh tế Trung Quốc vốn có cùng một mô hình chế độ, nhưng vẫn duy trì các mối quan hệ với Nga. Ấn Độ cũng vậy. Nước này tham gia tổ chức Thượng Hải cùng với Nga và Trung Quốc. Là một nước lớn, khá tự tin, tuy có những tranh chấp biên giới với Trung Quốc, công luận cũng bài Trung Quốc nhưng Ấn Độ không thể liên minh với Hoa Kỳ ».

Kềm hãm Trung Quốc : Chiến lược Reagan có hiệu quả ?

Thái độ này được thể hiện rõ qua việc trong thông cáo chung QUAD không dùng đến cụm từ « chống Trung Quốc ». Vậy đâu là mục tiêu chính của Bộ Tứ trong khi mà Trung Quốc không ngừng trỗi dậy, củng cố năng lực tấn công cho hải quân ? Trong năm 2021 này, Bắc Kinh sẽ cho hạ thủy 25 tầu chiến, một đội tầu chiến chất lượng cao, cực kỳ hùng mạnh.

Ngoài ra, Bắc Kinh còn có cả một đội tầu hải cảnh mà một đạo luật vừa thông qua cho phép lực lượng này nã súng vào các tầu nước ngoài khiến các nước quan ngại, và nhất là Trung Quốc còn có cả một đội tầu đánh cá ngang dọc khắp vùng Thái Bình Dương. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhà sử học, mối đe dọa lớn nhất cho Mỹ trong khu vực chính là hệ thống tên lửa phòng không của Trung Quốc.

« Vấn đề nghiêm trọng đối với Mỹ ở đây chính là việc họ đã quen thống trị biển cả khi cho rằng điều đó là tốt cho tài sản chung, cho phép tự do lưu thông hàng hải, duy trì hòa bình và bảo đảm giao thương quốc tế.

Giờ Mỹ có cảm giác là không còn được như thế do các hệ thống tên lửa phòng không và sự trỗi dậy của hải quân Trung Quốc tại Biển Đông và các vùng duyên hải Trung Quốc. Trong một chừng mực nào đó, điều này làm Hoa Kỳ lo lắng.

Cách đáp trả truyền thống là đóng thêm nhiều tầu chiến, đương nhiên cách làm này mang lại nhiều nguồn lợi cho các ngành công nghiệp hàng hải. Vấn đề tranh cãi ở đây là : Thay vì tăng số tầu chiến, lượng vũ khí nên chăng phát triển chiến tranh mạng để ngăn chận Trung Quốc tấn công tầu chiến Mỹ mới là quan trọng hơn ?

Theo tôi, có lẽ tốt hơn hết là nên đầu tư vào chiến trang mạng hơn là xây thêm tầu chiến mỗi lúc một nhiều và dễ bị tấn công. »

Liệu đó chẳng phải là chiến lược của Reagan được áp dụng từ trước cho đến nay ? Theo đó, Hoa Kỳ phô trương sức mạnh quân sự, một năng lực tấn công mạnh mẽ nhưng thực chất là để thương lượng ? Sử gia Pierre Grosser giải thích thêm.

« Về mặt quân sự, chiến lược của Reagan là tấn công trên biển để đối phó với Liên Xô. Tấn công ở đây có nghĩa là giam hãm không cho các tầu chiến Nga ra khỏi vùng biển Barents, biển Okhostsk… Bởi vì, kể từ những năm 1960, Liên Xô bắt đầu xây dựng các loại tầu chiến lớn, đó là điểm thứ nhất.

Điều thứ hai, cần phải xem đối với Reagan, đó là thương lượng trong thế mạnh. Như vậy, đầu tiên hết, thương lượng trong thế mạnh bởi vì ta có nhiều vũ khí và là vũ khí tối tân. Thứ đến là khi đã có đồng minh rồi thì ta có thể thương lượng. »

Chỉ có điều thời thế đã thay đổi. Trung Quốc không phải là Liên Xô. Hoa Kỳ và Trung Quốc phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau về kinh tế. Liệu rằng chiến thuật này có thể áp dụng cho Trung Quốc, vốn dĩ cũng là một cao thủ cờ vây ? Hạ hồi phân giải !

 Nguồn tin: RFI Tiếng Việt