Bài bình luận của ông Lê Hồng Hiệp về tình hình Biển Đông. Việt Nam nên cần có hành động và ứng xử như thế nào trước áp lực từ Trung Quốc. Tácgiả: Lê Hồng Hiệp Việt Nam gần đây đã hủy một số thỏa thuận với các đối tác nước ngoài về các hoạt động thăm dò dầu khí trên thềm lục địa gần BãiTư Chính ở Biển Đông. Động thái này đã gây nênquan ngại rằng sựkhả tín của Việt Nam trong việc bảo vệ cáclợi ích biểncủa mình ở Biển Đông sẽ bị suyyếu, khiến Việt Nam khó thu hút được các nhà đầu tư mới cho các dự án dầu khí trong tương lai.
Tháng trước, Việt Nam đã hủy cáchợp đồng phânchia sản phẩm(PSC) dầukhí với Repsol, một công ty năng lượng quốc tế có trụ sở tại Tây Ban Nha, đốivới các lô135-136/03 và 07/03. Theo dànxếp mới, Repsol sẽ chuyểngiao lại toàn bộ lợi ích của mình trong các lônày cho Tập đoàn Dầu khí Quốcgia Việt Nam (PVN), đối tác địaphương củaRepsol trong cácPSCnày. Đầu tháng này, PVN cũng đã hủy một hợp đồng khoan với Tập đoàn Noble, một nhà thầu khoan ngoài khơi có trụ sở tại London. Theođó, giàn khoan Noble Clyde Boudreaux đã không được triển khai tại lô06-01 gần đó đểtiến hành một hoạt động khoan thămdò như
dự kiến ban đầu. Trong cả hai trường hợp, PVN đều phải chịu tổn thất
tài chính đáng kể vì phải bồi thường cho Repsol và Noble.
Rõ ràng, áp lực của Trung Quốc là lý do chính khiến Việt Nam hủy cáchợp đồng này. Vào tháng 7 năm 2017, PVN đã phải yêu cầu Repsol ngừng khoan thămdò tại lô136/03 sau khi Trung Quốc đượccho là đe dọa sẽ tấn công các cơ sở của Việt Nam tại Trường Sa nếu Việt Namkhông dừng khoan. Trung Quốc cũng nhiều lần quấy rối các hoạt động dầu khí củaViệt Nam tại lô06-01. Năm ngoái, mộtcuộc đối đầu kéo dài bốn tháng giữa tàu khảo sát Haiyang Dizhi 8 của Trung Quốc, cùng với lực lượng hảicảnh và tàubán quân sự củaTrung Quốcđi kèm, và các tàu củaViệt Nam chỉ kết thúc sau khi Việt Nam quyết định rút giàn khoan Hakuryu 5 rakhỏi lô06-01. Bản đồ phân lô dầu khí của Việt Nam tại thềm lục điạ phía Nam. Nguồn: Cvdvn.Mộtđiều chắc chắnlà quyết định tạm dừng hoạt động thămdò dầu khí trong các lônày của Việt Nam không có nghĩa là Việt Nam thừa nhận các yêu sách biểncủa Trung Quốc đối với BãiTư Chính cũng như các vùng biển xung quanh. Việt Nam luôn bác bỏ những yêusách này là vô căn cứ và bất hợp pháp, đồng thời coi những lôdầu khí này là khu vực không có tranh chấp. Trong tương lai, Việt Nam luôn có thể táikhởi động các hoạt động dầu khí tạicác lô này tạithời điểm thích hợp.
Ngoài áp lực từ Trung Quốc, một số yếu tố khác cũng có thể đãgóp phần vào quyết định của Việt Nam. Thứnhất, sự sụt giảm giá dầu hiện tại, dự kiến sẽ vẫn ở mức thấp trong thờigian tới, khiến cho việc theo đuổi thăm dò dầu khí tạicác lôngoài khơi này không khảdĩ về mặt thương mại. Thứ hai, doĐảng Cộng sản Việt Nam đang chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ 13 vào đầu năm tới, các nhà lãnh đạo Việt Namcó thể ưu tiên ổn định chính trị và quan hệ hòa bình với Trung Quốc nhằmđảm bảo đại hộidiễn ra thành công. Thứ ba, cáctính toán thương mại của Repsol, đặc biệt là trách nhiệm củaban giám đốc côngty đối với các cổ đông, cũng khuyến khích công ty nàyrút khỏi các thỏa thuận với PVN để ngănchặn các tổn thất tài chính. Cuối cùng, nhưlưu ýcủa một chuyên gia từ PVN, những căng thẳng mới đối với lô06-01 có thể làm gián đoạn các hoạt động khai thác khí hiện nayở hai mỏ khí quan trọng gần đó. Do đó, PVN có thể đãưu tiên sự an toàn thayvì thúc đẩy choviệc triển khai giàn khoan Clyde Boudreaux.
Do quyết định hủy bỏ cácthỏa thuận nàygây thiệt hại đáng kể về tài chính và uy tíncho Việt Nam, Việt Nam nên cânnhắc lại chiến lược hoạt động dầu khí củamình tại các lô này để tránh những sự cố tương tự táidiễn trong tương lai.
Thứnhất, Việt Nam nên lập kế hoạch mộtcách thật sự kỹ lưỡng cho các hoạt động này, đặc biệt là về mặt thời điểmvà cách đối phó với áp lực của Trung Quốc, để các hoạt động nàycó thể đạt được cácmục tiêu thành công. Việt Nam không nên tiến hành các hoạt động như vậy nếukhông sẵn sàng cương quyết chống lại các áp lực từ Trung Quốc bởi nhữngnỗ lực nửa vời cùngsự chuẩn bị kémsẽ dẫnđến việc ngừng các hoạt động giữa chừng, gây tổn thất uy tín và tài chính, trong khi cànglàm cho Trung Quốctự tin lấn tới, o ép Việt Nam hơn nữa.
Thứ hai, Việt Nam nên cócách tiếp cận chiến lược hơn trong việc lựa chọn đối tác thamgia các PSC chocác lônày. Nhữngcông ty như Repsol chủ yếu theo đuổi các mục tiêu thương mại và có thể nhanh chóng tìm cáchthoát ranếu họ phải đối mặt với áp lực từ Trung Quốc hoặc sứcép tài chính. Chọn cácđối tác từ Mỹcó thể là một lựa chọn tốt hơn. Hôm13/07, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo đãtuyên bố rằng Hoa Kỳ bác bỏ mọi yêu sách của Trung Quốc đốivới vùng biển xung quanh BãiTư Chính, và bất kỳ hành động nào của Trung Quốc nhằmquấy rốihoạt động đánh cá hay phát triển dầukhí của các quốc gia khác trong khu vực nàyđều là bất hợp pháp. Do đó, chính phủ Mỹ có thể hỗ trợ các công ty Mỹ chống lại áp lực của Trung Quốc nếu Việt Nam hợptác với họ thực hiện các hoạt động dầu khí trong khu vựcnày.
Cuối cùng, nếu Trung Quốc tiếp tục ngăn cảncác hoạt động dầu khí củaViệt Nam tại các vùng biển xung quanh BãiTư Chính, Việt Namnên xem xét đệ trình một vụ kiện chống lại các yêu sách biểncủa Trung Quốc tạikhu vựcnày. Hồinăm 2016, mộttoà trọng tài quốctế trong vụ kiệngiữa Philippines vàTrung Quốc đã ra phán quyết rằng yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc là bấthợp pháp và các thựcthể ở quầnđảo Trường Sa chỉ có tốiđa một vùng lãnh hải rộng12 hải lývà không thểtạo ra vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) hoặc thềm lục địa choriêng mình. Điều này có nghĩa là không có vùngchồng lấngiữa lãnh hải của các thựcthể này vớivùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tínhtừ đất liền Việt Nam. Do đó, bất kỳ yêu sách biểnnào của Trung Quốc đối với BãiTư Chính và vùng biển xung quanh đềulà vô căn cứ và bấthợp pháp. Tuynhiên, phán quyếtnày chỉ cóhiệu lực với Philippines và Trung Quốc. Nhưngxét tiền lệ năm 2016, nếu Việt Nam đệ trình một vụkiện tương tự chống lại cácyêu sách biểncủa Trung Quốc đối với khu vực này, Việt Namsẽ có cơ hội caođể thắng kiện và quađó có cơ sở pháplý vữngchắc hơn nhằm chống lại sự quấy rối của Trung Quốc trong tương lai.
Mộtphiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản trên ISEAS Commentary.