Hành vi chính sách đối ngoại của Trung Quốc (Jain, B. M.)
Bài
viết này xem xét chính sách đối ngoại và ngoại giao của Trung Quốc
trong khuôn khổ lý thuyết địa tâm lý học, một loại lý thuyết có thể được
định nghĩa là lăng kính địa lý về mô hình hành vi và thái độ của một
dân tộc đối với các dân tộc khác, bắt nguồn từ những kinh nghiệm trong
quá khứ, quá trình lịch sử, cấu trúc văn hóa và cấu trúc xã hội.
Tóm tắt
Bài
viết này xem xét chính sách đối ngoại và ngoại giao của Trung Quốc
trong khuôn khổ lý thuyết địa tâm lý học, một loại lý thuyết có thể được
định nghĩa là lăng kính địa lý về mô hình hành vi và thái độ của một
dân tộc đối với các dân tộc khác, bắt nguồn từ những kinh nghiệm trong
quá khứ, quá trình lịch sử, cấu trúc văn hóa và cấu trúc xã hội. Bài
viết làm sáng tỏ những thành phần quan trọng có khả năng định hình tâm
lý địa chất học Trung Quốc trong nhiều thế kỷ qua và tác động của nó đối
với hành vi chính sách đối ngoại của Bắc Kinh. Điều nghịch lý là một
mặt, Trung Quốc nói về chống chủ nghĩa bá quyền nhưng mặt khác lại thực
hiện bá quyền khi đối phó với các nước láng giềng và ngoại vi của chính
mình. Có một vài ví dụ cho thấy thái độ hiếu chiến của Trung Quốc khi
khẳng định vị thế bá chủ khu vực không thể thách thức, trong khi về mặt
tâm lý học, Trung Quốc lại không chuẩn bị trước tâm lý chịu sự can thiệp
của các cường quốc ngoài khu vực tại Biển Đông và Biển Hoa Đông. Được
kích thích bởi chủ nghĩa dân tộc và tham vọng thống trị, Trung Quốc
quyết tâm trở thành bá chủ khu vực cho dù Mỹ có cố gắng bao vây quốc gia
này thông qua các liên minh cân bằng. Ngoài ra, Trung Quốc cũng kiên
quyết thay đổi luật chơi để nỗ lực thúc đẩy và dần định hình những lợi
ích quốc gia cốt lõi của mình. Về phần Mỹ, Trung Quốc đã có kế hoạch chi
tiết để đối phó vớ các chiến thuật bắt nạt của Mỹ.
Từ khóa : Địa
Tâm lý học, mô hình hành vi, giới cầm quyền, hội chứng Vương quốc Trung
tâm, chủ nghĩa dân tộc, văn hóa chiến lược, niềm tự hào văn hóa, hệ
thống thiên hạ, bá quyền
1. Giới thiệu
Sự
trỗi dậy đầy ngoạn mục của Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế và
quân sự trong vài thập kỷ qua chủ yếu được thúc đẩy bởi lòng quyết tâm
của chủ nghĩa dân tộc và tham vọng chính trị, mục tiêu là đóng một vai
trò được thừa nhận và có ảnh hưởng trong việc định hình các diễn biến
của hệ thống quốc tế. Trung Quốc đã sẵn sàng để cạnh tranh với Mỹ về
quyền lực và sự thống trị với tư cách là một chủ thể toàn cầu, có lẽ là
"đẩy Mỹ ra khỏi Ấn Độ-Thái Bình Dương và cạnh tranh trên vũ đài toàn
cầu" [1]. Chẳng
hạn, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình, Trung Quốc đã "đăng
đàn" bằng việc khởi động dự án tham vọng và vĩ đại nhất, Sáng kiến Vành
đai và Con đường (BRI) ; hay thành lập các thể chế mới như Ngân hàng Đầu
tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), và Ngân hàng Phát triển Mới dưới biểu
ngữ BRICS nhưng thực chất thuộc sự bảo trợ của mình. Những sáng kiến này
đồng bộ với việc thực hiện Giấc mộng Trung Hoa về phục hưng đất nước.
Tương tự như vậy, Trung Quốc đang hiện đại hóa mạnh mẽ các hệ thống quân
đội "mang tính tấn công" đạt đẳng cấp thế giới vào năm 2050 [2].
Trên
thực tế, hoạt động chính trị trong nước và các mối quan tâm về an ninh
nội bộ của Trung Quốc rất quan trọng trong việc định hình và thể hiện
nhận thức của Trung Quốc về trật tự thế giới, mang đặc trưng "sự phụ
thuộc lẫn nhau phức hợp" [3]. Trong
bối cảnh đó, bài viết cố gắng xem xét chính sách đối ngoại và ngoại
giao của Trung Quốc thông qua quan điểm của địa tâm lý học. Địa tâm lý
học có thể được định nghĩa là lăng kính địa lý về mô hình hành vi và
thái độ của một dân tộc đối với các dân tộc khác, bắt nguồn từ những
trải nghiệm trong quá khứ, quá trình lịch sử, cấu trúc văn hóa và cấu
trúc xã hội. Theo đó, bài viết tìm cách làm sáng tỏ các thành phần chính
định hình khung địa tâm lý học Trung Quốc trong nhiều thế kỷ qua cũng
như ảnh hưởng của nó tới hành vi chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Mở
đầu, lý thuyết địa tâm lý học [4] sẽ được đưa ra, mặc dù ngắn gọn nhưng giúp kết nối với cách tiếp cận của Trung Quốc khi đối phó với các cường quốc.
2. Thuyết địa tâm lý học địa lý (Geopsychology Theory-GT)
Học giả người Đức Willy Hellpach đã sử dụng thuật ngữ "Geopsyche" [5] trong
công trình đột phá của mình. Được đào tạo cơ bản về bác sĩ y khoa và
tâm lý học môi trường, ông đã giải thích rõ ràng những tác động của các
vật thể tự nhiên như trái đất, mặt trăng và mặt trời đối với con người
và môi trường xã hội. Tuy nhiên, ông không xem xét địa tâm lý học một
cách khoa học và toàn diện. Ông cũng không dự tính áp dụng nó vào quan
hệ quốc tế. Tương tự, Ronald W. Scholtz, một nhà toán học và tâm lý học,
đã khám phá cách nhận thức của con người bị ảnh hưởng bởi các điều kiện
môi trường. Scholtz và Hellpach đã nghiên cứu "màu sắc và hình dạng của
phong cảnh" ảnh hưởng đến hành vi của con người, trong khi trong chính
trị quốc tế, hành động của con người vượt qua biên giới quốc gia và
thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Trong bối cảnh
này, địa tâm lý học được cấu thành từ trạng thái tinh thần và kiểu hành
vi của các nhà lãnh đạo cầm quyền và chế độ toàn trị, bao gồm quần
chúng của một khu vực cụ thể hoặc quốc gia. Nói cách khác, địa tâm lý
học mang dấu ấn của những nhận thức chung, định kiến, chủ nghĩa dân tộc,
tôn giáo, sắc tộc và kinh nghiệm lịch sử.
Nhìn
chung, địa tâm lý học phản ánh môi trường văn hóa xã hội trong một khu
vực địa lý nhất định. Nói cách khác, có sự liên kết giữa các môi trường
và tâm lý đại chúng. Hơn nữa, khung nhận thức của mỗi xã hội khác nhau
giữa các vùng, hoặc quốc gia, tùy thuộc vào cấu trúc xã hội và sự nuôi
dưỡng văn hóa của quần chúng và các chủ thể cầm quyền hoặc phi nhà nước -
những người tiếp thu "các quy tắc và định hướng giá trị" do cộng đồng
hoặc nhóm địa phương sống trong một "môi trường xã hội hóa" vận hành [6].
Về
ý nghĩa, địa tâm lý học là một la bàn chính sách hay ngọn hải đăng
trong các hành trình của chính sách đối ngoại. Nó đặt ra để lấp đầy lỗ
hổng kiến thức trong các lý thuyết quan hệ quốc tế chính thống (IR)
thống trị ở phương Tây vốn phần lớn bỏ qua vai trò của kinh nghiệm lịch
sử, giá trị xã hội và văn hóa, và hệ thống niềm tin của các xã hội châu Á
và các tác nhân khu vực trong việc hình thành hành vi chính sách đối
ngoại. Điều này đặc biệt đúng với Nam Á, Trung Đông và Đông Bắc Á. Trên
thực tế, địa tâm lý học vẫn là một "người anh em bị ghẻ lạnh" thuộc
nhánh của IR, điều này không có nghĩa nó không thuộc tâm lý học. Trong
bối cảnh này, Joshua Kertzer và Dustin Tingley thuộc Đại học Harvard đã
phát hiện ra một sự chuyển đổi đáng kể của tâm lý học chính trị (PS)
trong IR. Họ đã xác định các lĩnh vực nghiên cứu chính về sự phát triển ở
PS – "Sự dâng trào mối quan tâm về cảm xúc và nhận thức, sự tăng lên
của các lý thuyết thông tin tâm lý về dư luận ở IR, một chương trình
nghiên cứu non trẻ [tác động của IR đối với cá nhân] [được gọi là] 'hình
ảnh đảo ngược đầu tiên', và công trình sinh học thần kinh và tiến hóa" [7]. Tuy nhiên, tâm lý chính trị không đủ chẩn đoán sự phức tạp của địa tâm lý học của các tác nhân nhà nước và phi nhà nước.
Các
nhà lý luận IR bị chia rẽ sắc về tính hợp lệ và độ tin cậy của các mô
hình IR. Có lẽ, họ đã không thể đưa ra những lời giải thích súc tích, rõ
ràng và thuyết phục về lý do tại sao hành vi chính sách của giới tinh
hoa quốc gia và quốc tế không thể được nghiên cứu một cách khoa học.
Chẳng hạn như, Kenneth Waltz lập luận rằng các quốc gia không chỉ quan
tâm đến việc bảo tồn phần quyền lực của họ mà còn mở rộng và củng cố nó
với ý định thay thế cấu trúc quyền lực hiện tại, cho dù bị chi phối bởi
một hay nhiều cường quốc. Tuy nhiên, "chủ nghĩa hiện thực mới cũng giống
như chủ nghĩa hiện thực cổ điển, không thể giải thích thỏa đáng cho
những thay đổi trong chính trị thế giới... Họ cho rằng chủ nghĩa hiện
thực mới bỏ qua cả quá trình lịch sử trong đó bản sắc và lợi ích được
hình thành cũng như đã bỏ qua nhiều khả năng mang tính phương pháp luận"
[8]. Chủ
nghĩa hiện thực giả định rằng các quốc gia "nghĩ và hành động theo lợi
ích được định rõ là quyền lực." Đó là một tuyên bố chung về tâm lý của
các quốc gia. Địa tâm lý học chủ yếu thể hiện đặc thù quốc gia và khu
vực - ví dụ, đặc trưng của Trung Quốc trong trường hợp của Trung Quốc [9]. Không
phủ nhận rằng các quốc gia hành động để tăng cường quyền lực nhưng tâm
lý của họ chỉ ra mức độ và cách tiếp cận theo đuổi quyền lực của họ. Lý
thuyết địa tâm lý học (GT) nhằm mục đích nghiên cứu, giải thích và phân
tích hành vi của các chủ thể nhà nước chuyên quyền và phi nhà nước,
những người có khả năng gây ảnh hưởng đến trật tự toàn cầu và khu vực.
GT
là một tập hợp vô số các mối tương quan như địa lý, lịch sử, chủ nghĩa
dân tộc, giá trị văn hóa, định hướng tôn giáo, hệ thống tín ngưỡng và
niềm tin hình thành nhận thức, quan điểm và cách tiếp cận của các nhà
lãnh đạo cầm quyền và các chủ thể phi nhà nước đối với chính trị khu vực
và toàn cầu. Ví dụ, các câu chuyện lịch sử là một công cụ nổi bật của
"kí ức xã hội", giúp hiểu được tâm lý của giới tinh hoa quốc gia hay đặc
biệt là chế độ toàn trị. Nhận thức văn hóa tâm lý, được hình thành
trong quá trình xây dựng quốc gia dân tộc, có xu hướng ảnh hưởng đến tâm
lý của những người sống trong ranh giới quốc gia. Điều quan trọng cần
lưu ý là không chỉ những người có mối quan hệ văn hóa với nhau tạo ra sự
hiềm khích đại chúng mà cả chiến tranh cũng được lý tưởng hóa, sự thù
địch được thể chế hóa, và xung đột tôn giáo được hợp pháp hóa. Đây là
cách các mối quan tâm trừu tượng của văn hóa dần dần biến thành "sự thù
ghét hiện đại", và sự cạnh tranh lịch sử được dự đoán là một nhu cầu
chính trị để vượt qua đối thủ.
3. Tính thích hợp của thuyết địa tâm lý học
Địa
tâm lý học vẫn là một lĩnh vực bị lãng quên trong quan hệ quốc tế (IR).
Một phần, nó được cho là do ưu thế của địa chính trị trong thời Chiến
tranh Lạnh khi các nhà lý luận IR quan tâm nhiều hơn đến việc nghiên cứu
các liên minh vì ảnh hưởng của nó đối với sự cân bằng quyền lực. Họ
nhấn mạnh vào "các điều kiện cấu trúc bên trong mà các quốc gia hành
động thay vì đặc điểm của từng quốc gia, chẳng hạn như các thể chế chính
trị trong nước của họ" [10]. Có
lẽ, họ đã quá bận tâm nghiên cứu về các tranh chấp liên bang được quân
sự hóa nên không thể suy ngẫm về hiệu quả của địa tâm lý học như là một
phương thức quản lý khủng hoảng ở cấp độ khu vực và toàn cầu. Hơn nữa,
các học giả phương Tây đã tập trung nhiều hơn vào việc nghiên cứu các tổ
chức Liên Hợp Quốc và Bretton Woods, là các thể chế chủ yếu phục vụ cho
lợi ích quân sự và an ninh trong việc tối đa hóa quyền lực hơn là hỗ
trợ một nhà nước đạo đức [11] trong chính trị lưỡng cực.
Tình
cờ là ngành IR đã trải qua sự chuyển đổi căn bản với sự kiện bi thảm
xảy ra ngày 9/11. Các học giả IR tham gia vào các nghiên cứu về ý thức
hệ, quân sự và an ninh, giờ đây có trách nhiệm lớn hơn trong việc hiểu
thấu đáo các kiểu đe dọa mới xuất phát từ các chủ thể phi quốc gia và
toàn trị - những người có khả năng tác động đến quỹ đạo của kiến trúc an
ninh khu vực và toàn cầu ngày nay. Henry Kissinger, thuộc trường phái
tư tưởng hiện thực, đồng ý rằng khái niệm cân bằng quyền lực truyền
thống không còn có thể định nghĩa các "khả năng" hay "nguy cơ" nữa [12]. Theo
nhận thức của ông, các mô hình quốc tế cũ đang sụp đổ và các giải pháp
cũ không còn khả thi do ảnh hưởng của công nghệ và truyền thông khiến
mọi người nhận thức được những gì đang diễn ra trên thế giới. Bởi vậy,
GT là một nỗ lực để thu hẹp khoảng cách kiến thức hiện có trong các lý
thuyết IR bằng cách làm sáng tỏ các đặc điểm khác biệt của một khu vực
về địa lý, lịch sử, dân tộc, tôn giáo, văn hóa (đặc biệt về phương diện
văn hóa), và thế giới quan của giới tinh hoa quốc gia và các chủ thể cá
nhân. Nó có khả năng phân tích các nguyên nhân cơ bản của xung đột, bạo
lực và chiến tranh trong trật tự thế giới hiện tại cũng như đóng vai trò
là kim chỉ nam nhằm giảm thiểu cường độ tương tác của vô số xung đột.
Sự thích đáng của nó có thể được tóm gọn như sau.
Đầu
tiên, các mô hình chủ đạo của IR như chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa
hiện thực mới, chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa kiến tạo đã không thể
đưa ra những lý do chính đáng về nguyên nhân gốc rễ của các mối đe dọa
an ninh phi truyền thống như phong trào ly khai, nội chiến, chủ nghĩa
cực đoan tôn giáo và xung đột tôn giáo trên khắp thế giới. Ngược lại, GT
giúp hiểu cách những lực lượng quyết định chủ nghĩa dân tộc, những bất
bình lịch sử và văn hóa định hình các cách tiếp cận chính sách và chiến
lược của các chế độ độc đoán ; trong khi đối phó với cái gọi là quyền bá
chủ siêu cường trong bối cảnh thời kỳ bá quyền đã kết thúc trong một
trật tự thế giới phụ thuộc lẫn nhau.
Thứ hai,
GT rất hữu ích trong việc tìm hiểu chính sách đối ngoại và hành vi
ngoại giao của các chế độ toàn trị như ở Trung Quốc và Triều Tiên, do
tính không khả thi của mô hình lựa chọn hợp lý trong quá trình ra quyết
định của họ.
Thứ
ba, chủ nghĩa hiện thực cấu trúc, chủ nghĩa tự do mới và chủ nghĩa kiến
tạo đã không thể chẩn đoán và chi tiết hơn về cách hành xử của các tác
nhân phi nhà nước bạo lực đôi khi đe dọa và thách thức hơn so với các
tác nhân nhà nước.
4. Các thành tố của địa tâm lý học Trung Quốc
Địa
tâm lý học của giới cầm quyền và quần chúng Trung Quốc, củng cố các
hành vi và thực tiễn chính sách đối ngoại của đất nước, đã được hình
thành từ lịch sử về nỗi nhục quốc gia, hội chứng Vương quốc Trung tâm,
niềm tự hào văn hóa, chủ nghĩa dân tộc, văn hóa chiến lược và diễn ngôn
chống bá quyền [13].
4.1. Nỗi đau từ sự ô nhục
Địa tâm lý học của Trung Quốc chủ yếu bắt nguồn từ quá khứ lịch sử, đáng chú ý là sự sỉ nhục [14] mà
quốc gia này phải nếm trải dưới bàn tay của các đế quốc và các cường
quốc phương Tây vào thế kỷ 19, kéo dài cho đến giữa thế kỷ 20 khi thành
lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) vào tháng 10 năm 1949. Bị coi
thường bởi các "hiệp ước bất bình đẳng" đáng khinh, các nhà lãnh đạo
Trung Quốc đã nung nấu tư duy nạn nhân hóa do các thế lực ngoại bang gây
ra ngay từ cuộc Chiến tranh Nha phiến (1839-1842) - một thất bại tâm lý
sâu sắc của các hoàng đế nhà Thanh - qua nhiều cuộc xâm lược của châu
Âu đối với Trung Quốc, cho đến Chiến tranh Nhật Bản-Trung Quốc
(1937-1945) [15]. Trong bối cảnh này, Kerry Brown nhận định :
Trong
phần lớn thời kỳ hiện đại, người Trung Quốc đã thua trong cuộc chiến về
sự hiện đại. Về khía cạnh này, thời kỳ từ năm 1839 trở đi là một thất
bại thảm hại đến nỗi đã được nhắc đến trong ghi chép lịch sử gần đây là
"thế kỷ ô nhục." Những vết thương từ lịch sử này và cảm giác là nạn nhân
mà nó mang lại rất sâu sắc đối với tâm lý người Trung Quốc hiện đại.
Điều này ít nhất giải thích sự mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc
đương đại - được xây dựng dựa trên những câu chuyện xung quanh và sự bất
công mà nhiều người Trung Quốc nhìn thấy trong đó [16].
Zheng
Wang, giáo sư Trường Ngoại giao và Quan hệ Quốc tế thuộc Đại học Seton
Hall, New Jersey, nhận xét rằng, nỗi nhục của quốc gia đã thổi bùng
"ngọn lửa cần thiết để Trung Quốc trỗi dậy như một con phượng hoàng từ
đống tro tàn và vượt qua phương Tây trong nhiệm vụ tìm kiếm vinh quang" [17]. Hơn
nữa, giới lãnh đạo Trung Quốc đã khai thác nó thành một câu chuyện lịch
sử, xây dựng hình ảnh kháng chiến và thắng lợi của quốc gia như một sự
tôn trọng. Ví dụ, bài phát biểu của Chủ tịch Tập Cận Bình tại lễ kỷ niệm
70 năm chiến thắng vào tháng 9 năm 2015 là một chiến lược được tính
toán kỹ lưỡng để hồi sinh và lưu giữ ký ức đại chúng về cuộc kháng chiến
của nhân dân Trung Quốc chống lại sự xâm lược của Nhật Bản. Tập Cận
Bình tuyên bố : "Ngày hôm nay là một ngày sẽ mãi mãi khắc sâu trong ký
ức của mọi người trên toàn thế giới. Bảy mươi năm trước, nhân dân Trung
Quốc đã chiến đấu kiên cường trong 14 năm, giành được chiến thắng vĩ đại
trong Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nhật Bản, đánh dấu chiến
thắng toàn diện của Chiến tranh chống phát xít thế giới. Vào ngày đó,
thế giới một lần nữa được ban phước bởi ánh mặt trời của hòa bình" [18]. Ông nói thêm :
Chiến
thắng của người dân Trung Quốc trong Chiến tranh kháng chiến chống Nhật
là chiến thắng đầu tiên hoàn toàn do Trung Quốc giành được trong cuộc
kháng chiến chống xâm lược từ nước ngoài trong thời hiện đại. Chiến
thắng vĩ đại này đã nghiền nát âm mưu của các nhà quân phiệt Nhật Bản
thực dân hóa và nô lệ hóa Trung Quốc, chấm dứt nỗi nhục quốc gia của
Trung Quốc về những thất bại liên tiếp dưới bàn tay của những kẻ xâm
lược ngoại bang. Chiến thắng vĩ đại này cũng tái lập Trung Quốc thành
một quốc gia lớn trên thế giới và giành được sự tôn trọng của tất cả
những người yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới đối với người dân
Trung Quốc. Chiến thắng vĩ đại này mở ra triển vọng tươi sáng cho sự đổi
mới vĩ đại của đất nước Trung Quốc và đưa đất nước Trung Quốc cổ đại
vào một hành trình mới sau khi giành được độc lập [19].
Các
tuyên bố trên phản ánh rõ ràng tư duy của giới lãnh đạo Trung Quốc đã
"khắc cốt ghi tâm" các giai đoạn lịch sử nhục nhã, đấu tranh và chiến
thắng, góp phần hình thành địa tâm lý của Trung Quốc đối với thế giới
bên ngoài, đặc biệt là những kẻ xâm lược trong quá khứ như Nhật Bản mà
Trung Quốc coi là đối thủ địa chính trị tại Đông Á và Đông Nam Á. Tâm lý
bài Nhật ăn sâu vào xã hội Trung Quốc cho đến ngày nay. Giới lãnh đạo
Bắc Kinh cũng lo ngại về sự hợp tác địa chiến lược giữa Nhật Bản và Mỹ
trong việc hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực Ấn Độ Dương -
Thái Bình Dương. Thomas J. Christensen cũng ủng hộ quan điểm này, viết
rằng "các di sản lịch sử và sự căm thù dân tộc làm trầm trọng thêm tình
trạng khó xử về an ninh trong quan hệ Trung-Nhật" [20]. Tuy nhiên, "sự ngờ vực bắt nguồn từ lịch sử và dựa trên bản năng của Trung Quốc đối với Nhật Bản" [21] đã
dẫn đến việc nảy sinh những hiềm khích trong mối quan hệ của họ. Trung
Quốc rất nhạy cảm về việc xâm lược trong quá khứ của Nhật Bản.
Christensen giải thích thêm : "Sự từ chối của Nhật Bản đối với việc đáp
ứng thỏa đáng các yêu cầu của Trung Quốc là Tokyo thừa nhận và xin lỗi
về quá khứ đế quốc của mình - ví dụ, bằng cách sửa đổi sách giáo khoa
lịch sử trong các trường công - đã giúp lưu giữ sự ác cảm tự nhiên của
Trung Quốc đối với Nhật Bản" [22].
Tại
thời điểm quan trọng này, chế độ Tập Cận Bình quyết tâm xoa dịu các cử
tri trong nước bằng cách đưa ra lời hứa "siêu cường Trung Quốc", một lời
hiệu triệu đối phó với các tình thế khó khăn địa chính trị mới ở khu
vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Vì điều này, Chủ tịch Tập Cận Bình đã
khuyến khích công dân Trung Quốc ghi nhớ những ký ức cay đắng còn đó về
việc họ bị các thế lực xâm lược như Nhật Bản đối xử tàn bạo như thế nào.
Ông nhấn mạnh : "Dù có trở nên hùng mạnh như thế nào, Trung Quốc sẽ
không bao giờ tìm kiếm bá quyền hay bành trướng. Trung Quốc sẽ không bao
giờ gây ra đau khổ cho bất kỳ quốc gia nào khác. Người dân Trung Quốc
quyết tâm theo đuổi mối quan hệ hữu nghị với tất cả các quốc gia, giương
cao kết quả của Cuộc kháng chiến nhân dân Trung Quốc chống lại sự xâm
lược của Nhật Bản và Cuộc chiến chống phát xít thế giới, và đóng góp
nhiều hơn cho nhân loại" [23]. Lối
nói khoa trương này đưa đến một thông điệp chính trị cho quần chúng
rằng, Trung Quốc có khả năng tự tái lập thành một quốc gia vĩ đại để đảm
bảo một trật tự thế giới không có bá quyền [24].
4.2. Hội chứng Vương quốc Trung tâm
Trong
quá khứ, Shi Jie (1005-45) đã định nghĩa Vương quốc Trung tâm một cách
oai hùng : "Trời ở trên, đất ở dưới, và giữa trời và đất chính là Trung
Quốc [zhongguo]. Những kẻ ngoại vi là nước ngoài [tứ di/si yi]. Nước
ngoài thuộc về bên ngoài [wai] trong khi Trung Quốc thuộc về bên trong
[nei]. Do đó, trời và đất có thể phân biệt bên ngoài với bên trong" [25]. Điều
gì đã dẫn đến nhận thức kiêu ngạo này ? Robert Gamer giải thích rằng
trong phần lớn lịch sử của mình, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có rất ít
liên hệ hoặc tương tác với các khu vực bên ngoài biên giới phía tây
Trung Quốc, với sự cô lập đã thúc đẩy niềm tin của họ vào "vị trí của
‘Vương quốc Trung tâm’ trong vũ trụ" [26]. Tương
tự, Samuel King giải thích : "Trung Quốc được bảo vệ ở phía tây bởi các
sa mạc gần như vô tận, ở phía tây nam bởi dãy núi Himalaya và ở phía
đông bởi các đại dương bao la. Được ngưỡng mộ nhưng thường bị tấn công
bởi 'những kẻ man di mọi rợ' (barbarians) từ vùng đất cao nguyên bán khô
cằn ở phía bắc và phía tây, và bị ngăn cách khỏi các trung tâm văn minh
khác bởi đại dương, sa mạc và núi non, Trung Quốc dần dần phát triển
một ý thức độc đáo về vị trí của mình dưới gầm trời" [27]. Tuy
nhiên, cho đến ngày nay, tâm lý các nhà lãnh đạo Trung Quốc có vẻ kiên
quyết thấm nhuần tâm lý "Vương quốc Trung tâm". Đầu tiên, mặc dù bị cuốn
vào giữa những hạn chế trong nước đối với sự phát triển kinh tế và sự
hội nhập ngày càng tăng với trật tự kinh tế toàn cầu, thế giới quan của
Trung Quốc về cơ bản dựa trên đặc điểm của Trung Quốc [28]. Nó
bị kích thích bởi hình ảnh bản thân Trung Quốc buộc phải đóng một vai
trò quan trọng trong việc định hình kiến trúc toàn cầu thay vì phụ thuộc
vào bất cứ cường quốc nào. Thứ hai, giữa những yếu tố khác, địa tâm lý
học của Trung Quốc về nhận thức vai trò của mình trong chính trị thế
giới được xác định bởi lịch sử đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình hình
thành tư tưởng và hành vi của Trung Quốc về chiến tranh và hòa bình.
Trong thế giới quan của Trung Quốc, "phương thức chủ quyền lãnh thổ" của
trật tự thế giới đã bị phương Tây và Nhật Bản áp đặt lên.[29] Trên
thực tế, Trung Quốc khẳng định rằng khái niệm chủ quyền của họ không
thể được hiểu một cách đúng đắn thông qua các lăng kính hay khái niệm
phương Tây.
Jain, B. M.
Nguyên
tác : China's Foreign Policy Behaviour : Understanding through the Lens
of Geopsychology, Questia, International Journal of China
Studies,12/2019
Ngô Minh Anh, thực tập sinh Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao, dịch
Trần Quang, hiệu đính
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 26/05/2020
....
Tiến sĩ B.M. Jain, Giáo sư Khoa học Chính trị, Tổng Biên tập Tạp chí Asian Affairs, Ấn Độ. Ông
đã giảng dạy các lớp đại học và sau đại học về chính phủ và chính trị ở
Ấn Độ và Nam Á, quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại của các cường
quốc, ngoại giao, kiểm soát vũ khí, giải trừ quân bị, toàn cầu hóa, quản
trị toàn cầu và nhân quyền. Ông
đã viết hơn hai mươi cuốn sách và nhiều bài báo bao gồm : South Asia
Conundrum : The Great Power Gambit (Lexington Books, 2019), China's Soft
Power Diplomacy in South Asia (Lexington Books, 2017) và
"India-Pakistan Engagement with the Greater Middle East : Implications
and Options". Bài viết được đăng trên International Journal of China Studies.
[1] Oriana Skylar Mastro, "The Stealth Superpower", Foreign Affairs, tháng 1-2/2019
[2] "Xi Calls for Building a Strong Army", English.Gov.CN, 27/10/ 2017
[3] Robert O. Keohane and Joseph Nye, Power and Interdependence, Boston : Longman, 2012, paperback, fourth edition.
[4] Một
phần của cuốn sách sắp tới trong Geopsychology Theory Building in
International Relations, Lexington Books/Rowman and Littlefield, Lanham,
MD, 2020.
[5] Willy Hellpach, Geopsyche, Leipzig : Engelmann, 1911.
[6] -
[7] Joshua D. Kertzer and Dustin Tingley, "Political Psychology in International Relations : Beyond the Paradigms", Annual Review of Political Science, Vol. 21, 2018, 1-23
[8] W. Julian Korab-Karpowicz, "Political Realism in International Relations", Stanford Encyclopedia of Philosophy, Summer 2018
[9] Xem
Joseph Tse-Hei Lee, Lida V. Nedilsky and Kelvin C.K. Cheung, China’s
Rise to Power : Conceptions of State Governance (New York : Palgrave
MacMillan, 2012) ; Weixing Hu, Gerald Chan và Daojiong Zha,
"Understanding China’s Behavior in World Politics : An Introduction"
trong Weixing Hu, Gerald Chan and Daojiong Zha, China’s International
Relations in the 21st Century : Dynamics of Paradigm Shifts (Maryland :
University Press of America, 2000) ; Zhiqun Zhu, China’s New
Diplomacy (Surrey : Ashgate, 2013).
[10] John
R. Oneal, "Transforming Regional Security through Liberal Reforms," in
T.V. Paul (ed.), International Relations Theory and Regional
Transformation (Ch. 7, pp. 158-180), Cambridge : Cambridge University
Press, 2012.
[11] Xem
Robert O. Keohane, After Hegemony : Cooperation and Discord in the
World Political Economy. Princeton, N.J : Princeton University Press,
1984 ; Mearsheimer, John J., The Tragedy of Great Power Politics (New
York, NY : W.W. Norton, 2014).
[12] Henry Kissinger, World Order (Penguin Press, 2014).
[13] Đối
với một nghiên cứu sâu sắc về cách giải thích khác nhau về bá quyền,
chống bá quyền và bài bá quyền, xem Owen Worth, Rethinking
Hegemony (London : Palgrave Macmillan, 2015).
[14] Jonathan
D.T. Ward, China’s Vision of Victory (North Carolina : Atlas
Publishing, 2019) ; Evelin Gerda Lindner, monograph on Toward a Theory
of Humiliation, 2001.
[15] Xem Robertson Scott, The Creation of Modern China, 1894-2008 : The Rise of a World Power (London : Anthem Press, 2016).
[16] Kerry Brown, "The True Deficit with China is Not With Trade – But Knowledge", Diplomat, 2/10/2017
[17] Zheng
Wang, Never Forget National Humiliation : Historical Memory in Chinese
Politics and Foreign Relations (New York : Columbia University Press,
2012), p. 77. Xem thêm Edgar Snow, China’s Long Revolution (London :
Penguin Books Ltd, 1973).
[18]htpp://news.xinhuanet.com/english/201-09/03/c_134583870.htm , truy cập ngày 28/12/2017.
[19] Ibid.
Xem Shogo Suzuki, "The Importance of ‘Othering’ in China’s National
Identity : Sino-Japanese Relations as a Stage of Identity
Conflicts", The Pacific Review, Vol. 20, No. 1, 2007, pp. 23-47. Suzuki
cho rằng "bản sắc dân tộc của Trung Quốc hiện đại được đặc trưng bởi ý
thức là ‘nạn nhân' sâu sắc, phát sinh từ sự tương tác hỗn loạn của nó
với xã hội quốc tế, và Nhật Bản đóng vai trò quan trọng như một 'nhân tố
khác' giúp nâng cao hình ảnh bản thân Trung Quốc như là một 'nạn nhân'"
(p. 23).
[20] ‘China, the U.S.-Japan Alliance, and the Security Dilemma in East Asia’, p. 26.
[21] Ibid., p. 27.
[22] Ibid., p. 27.
[23] Ibid.
[24] William
A. Callahan, "Chinese Visions of World Order : Post-Hegemonic or a New
Hegemony ?", International Studies Review, Vol. 10, No. 4 (Dec., 2008),
pp. 749-761 ; William A. Callahan and Elena Barabantseva, eds., China
Orders the World : Normative Soft Power and Foreign Policy, Baltimore,
Johns Hopkins University Press, 2011.
[25] Trích
trong Song Xianlin and Gary Sigley, "Middle Kingdom Mentalities :
Chinese Visions of National Characteristics in the 1990s,"
Communal/plural Journal of Transnational & Cross-Cultural Studies,
Vol. 8, No. 1 (2000), p. 53.
[26] Robert E. Gamer, "International Relations", trong Robert E. Gamer, pp. 179-80.
[27] Trích
trong Zheng Wang, Never Forget National Humiliation : Historical Memory
in Chinese Politics and Foreign Relations, New York : Columbia
University Press, 2012, p. 72.
[28] Xem
David Shambaugh, China Goes Global : The Partial Power, New York :
Oxford University Press, 2013 ; Henry Kissinger, On China, New York :
Penguin Press, 2011, and Reprint edition, 2012.
[29] Xem
Florian Schneider, "Reconceptualising World Order : Chinese Political
Thought and its Challenge to International Relations Theory," Review of
International Studies, Vol. 40, No. 4 (2014) : 683-703.