Không gian sinh tồn của dân tộc đang bị thách thức (Tuanvietnam)
Bài tiếp theo của cựu đại sứ VN Nguyễn Trường Giang tại Brunei. Nhiều chuyên gia đã nhận diện được âm mưu của TQ chỉ có mỗi ĐCSVN là không. Họ vẫn xem TQ là 'bạn vàng và bốn tốt' trong khi giới nghiên cứu nói rõ TQ là 'xâm lược' và 'đe dọa không gian sinh tồn của dân tộc' VN. Chiến tranh là điều không ai muốn vì vậy nếu muốn giữ được hòa bình thì chỉ còn mỗi cách là dân chủ hóa đất nước để VN có được sự hậu thuẫn vững chắc của 96 triệu người dân VN và các quốc gia dân chủ trên thế giới. ĐCSVN không có khả năng đoàn kết dân chúng và không thể có mối quan hệ tốt đẹp với các nước văn minh vì thể chế chính trị độc tài cộng sản.
Tuần Việt Nam xin giới thiệu góc nhìn của Nguyên Đại sứ Việt Nam tại Brunei, Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao Nguyễn Trường Giang nói tại CLB Cafe Số gần đây về sách lược người Việt Nam cần thực hiện để bảo vệ chủ quyền Biển Đông.
Đầu
tiên, cần phải nhận diện được thách thức của mình. Người Việt Nam có
một điểm yếu, đó là có thể nhận diện được tất cả mọi thứ, trừ bản thân
mình. Nếu chúng ta không sợ chiến tranh và chuẩn bị kỹ cho chiến tranh
thì chúng ta sẽ có hòa bình. Còn nếu chúng ta sợ hãi thì lập tức chiến
tranh sẽ đến, chúng ta mất hòa bình và mất cả chủ quyền lãnh thổ. Đây là
vấn đề căn bản của mọi binh pháp trên thế giới.
Qua bức tranh thực trạng Biển Đông như tôi đã nói phần 1,
có thể thấy mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, tức
là chiếm toàn bộ các đảo trong vùng biển này (bao gồm 4 quần đảo Tây
Sa, Nam Sa, Đông Sa, Trung Sa theo cách gọi của Trung Quốc).
Trung
Quốc cũng muốn chiếm chủ quyền với khoảng 80% diện tích Biển Đông và
toàn bộ tài nguyên trong khu vực biển này. Bên cạnh đó là quyền kiểm
soát với vùng trời, vùng biển và đáy biển. Điều này mang đến thách thức
nghiêm trọng đối với chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông.
Trong 6
thập kỷ qua, có thể thấy rõ các biện pháp và kế sách mà Trung Quốc đã
áp dụng để triển khai mục tiêu này. Nước này đã dùng đến mọi biện pháp,
từ kinh tế, chính trị, ngoại giao cho đến tâm lý và cả thông tin tuyên
truyền.
Do vậy, có thể thấy thông tin tuyên truyền là một trong
những mặt trận rất quan trọng. Có những thời điểm, mặt trận tuyên truyền
còn quan trọng hơn cả mặt trận quân sự, ngoại giao hay pháp lý.
Các kế sách của Trung Quốc trên Biển Đông
Người
Trung Quốc ngày nay học tập nhiều từ binh pháp Tôn Tử, nhưng cũng có
rất nhiều cải tiến đối với loại binh pháp này. Người Trung Quốc biến các
loại mưu kế trở thành một bộ môn khoa học và đưa vào các nội hàm mới
cho những mưu kế này.
Các ví dụ có thể kể đến là kế sách “tằm ăn
dâu”, “biến không thành có”, “gác tranh chấp cùng khai thác”, “cây gậy
và củ cà rốt”,...
Trong đó, một trong những kế sách thâm độc nhất
của Trung Quốc là chiến thuật “vùng xám”, tức dân sự hoá các hoạt động
quân sự và bán quân sự, không sử dụng hải quân cũng như các hoạt động có
cường độ quá mạnh hay vượt qua một giới hạn đỏ nào đó. Mục đích của
điều này là không để tạo ra những phản ứng quá quyết liệt từ các nước
khác.
Nhìn vào quá khứ, dự đoán tương lai
Trong
bức tranh về thực trạng ở Biển Đông, chúng ta có thể dựa vào những gì
đã xảy ra trong quá khứ để nhìn nhận và dự đoán tương lai.
Về
trung hạn, Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục đưa dàn khoan vào thềm lục địa
Việt Nam. Khả năng thứ 2 là Trung Quốc sẽ tạo ra một vùng nhận diện
phòng không trên Biển Đông. Trung Quốc cũng có thể sẽ tiến hành chiếm
giữ một số bãi đá ngầm mà chưa có quốc gia nào chiếm đóng.
Dù
rất hãn hữu, thế nhưng không loại trừ khả năng Trung Quốc sẽ đánh chiếm
Trường Sa. Tuy nhiên điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ có một thời cơ
thích hợp. Người Trung Quốc thường chỉ hành động khi có thiên thời, địa
lợi, nhân hòa và tính toán được rất kỹ cái giá phải trả. Đây chính là
điểm để Việt Nam hoạch định các kế sách đối phó.
Nếu Việt Nam có
thể làm cho Trung Quốc không có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa hoặc
trong trường hợp có chiến tranh, nước này sẽ phải trả một cái giá rất
đắt thì họ sẽ không dám đánh chiếm Trường Sa nữa.
Trong 2 năm
tới trước Đại hội, việc quân sự hoá Biển Đông sẽ được Trung Quốc thực
hiện ráo riết hơn. Trung Quốc có thể đưa những lực lượng quân sự đông
hơn ra chiếm đóng tại Trường Sa. Nước này cũng có thể vẽ ra lãnh hải của
những hòn đảo mà hiện tại họ đang chiếm đóng, cũng như vùng nội thuỷ
của các đảo này. Đây là những cảnh báo mà chúng ta cần phải lưu ý.
Trung
Quốc sẽ sớm thông qua Luật An toàn giao thông hàng hải sửa đổi. Từ dự
thảo của bộ luật này, có thể thấy Trung Quốc có khả năng dựa vào đây để
lập các vùng an toàn hàng hải trên biển. Điều gì sẽ xảy ra nếu vùng an
toàn bao chùm lên các nhà giàn DK1 của Việt Nam. Bên cạnh đó, tàu
thuyền sẽ phải xin phép khi tiến vào vùng biển Trường Sa. Điều này cũng
có nghĩa là các đảo của Việt Nam sẽ bị phong toả.
Năm 2016, 2017,
trên các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc đưa ra một dự
báo cho thấy, Trung Quốc có thể đưa những nhà máy điện hạt nhân nổi ra
Biển Đông.
Nếu như các nhà máy điện hạt nhân nổi được triển khai
tại Biển Đông, nó sẽ mang lại rất nhiều thách thức về chủ quyền, môi
trường, kinh tế, tài nguyên và đối với mạng sống của hàng trăm triệu
người…
Đánh
giá về tình hình hiện nay, có thể thấy vấn đề Biển Đông đang ngày càng
phức tạp và diễn biến khó lường. Chủ quyền biển đảo Việt Nam đang bị
thách thức nghiêm trọng và thách thức này sẽ còn nghiêm trọng hơn nữa
trong tương lai.
Các thách thức mà Việt Nam sẽ phải đối mặt là về
chủ quyền, kinh tế biển, an ninh quốc phòng, môi trường phát triển và
thách thức đối với không gian sinh tồn của dân tộc. Cuối thế kỷ 21, Việt
Nam sẽ có quy mô dân số khoảng 140 triệu người. Lúc này chúng ta cần
phải tiến ra biển, biển là niềm hy vọng và là không gian sinh tồn của
những thế hệ sau này.
Hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với một
kiểu xâm lược như vậy: tiến dần dần. Vì thế, tôi muốn nhấn mạnh về thách
thức không gian sinh tồn của dân tộc .
Cuối thế kỷ này dân số
nước ta lên khoảng 140 triệu người, con cháu chúng ta sống ở đâu nếu
không tiến ra biển. Lúc đấy là chúng ta cần có thành phố biển, có làng
mạc biển, có nông nghiệp biển, có công nghiệp biển, có cảng biển, có sân
bay trên biển. Biển là niềm hi vọng, là không gian sinh tồn của những
thế hệ sau này.
Và tôi muốn nhấn mạnh điểm này: không gian sinh tồn của dân tộc mình đang bị thách thức.
(Còn nữa)
Tư Giang lược ghi