Chấn thương: Những điều cần biết (Phạm Phú Khải)
Mỗi
cá nhân, và mỗi dân tộc, trong suốt chiều dài lịch sử, đều trãi qua
những chấn thương rất lớn, có khi quá lớn, để có thể vượt qua. Chiến
tranh, nhất là nội chiến, là một trong các chấn thương lớn như thế.
Nhưng sau mỗi chấn thương, dù đó là ngoại xâm hay nội chiến, vấn đề quan
yếu là lãnh đạo quốc gia chủ trương ra sao, chính sách và hành động cụ
thể là gì, để hàn gắn vết thương của dân tộc hầu xây dựng lại tiềm năng
quốc gia cho mục tiêu phát triển, cho tương lai của đất nước và các thế
hệ mai sau, thay vì vẫn cứ tiếp tục các chính sách phân biệt đối xử với
tâm lý hận thù không dứt? (Phạm Phú Khải)
Sau
bao nhiêu lần đi vượt biên không thành, lần sau cùng chuyến đi của gia
đình tôi cũng vượt qua được cửa đại. Nhưng máy thuyền của chúng tôi bị
ngưng nửa chừng, lúc vẫn còn nhìn thấy bến bờ của một hòn đảo thuộc địa
phận Việt Nam. Tin rằng thế nào cũng bị bắt rồi bị tù đầy, nỗi đe dọa và
tuyệt vọng xâm chiếm mọi người trên thuyền. May mắn thay máy được sửa
và chạy trở lại gần ba tiếng sau đó. Nhưng sau đó bão và sóng lớn trong
suốt chuyến đi đến nỗi con thuyền có thể bị tan thành từng mảnh và chìm
đắm dưới đại dương bất cứ lúc nào. Sau cùng chúng tôi cũng đến được bến
bờ tự do. Trong gần mười năm đầu tôi vẫn thỉnh thoảng nằm mơ tưởng mình
bị bắt, bị bắn hoặc bị giết. Khi giật mình tỉnh giấc tôi mới biết đó là
cơn ác mộng!
Những
người bạn không phải Việt Nam của tôi, mỗi khi nghe tôi kể chỉ một phần
nhỏ về hành trình tìm tự do của mình, đều kinh ngạc và đều yêu cầu tôi
viết sách. Nhưng những chấn thương trong cuộc đời tôi, nếu có, cũng rất
nhỏ nhoi, không đáng kể, so với bao người Việt Nam khác. Có những gia
đình đi vượt biên mà cuối cùng không còn ai sống sót cả. Cũng có những
người còn sống sót sau các chuyến đi hãi hùng nhưng mọi sự sau đó không
còn bình thường. Cuộc đời của họ mãi mãi về sau là những chấn thương, và
những ám ảnh bởi hậu chấn thương.
Thế
nào là chấn thương (trauma)? Theo tự điển Oxford thì chấn thương là một
kinh nghiệm sầu não hoặc rúng động. Nhà tâm lý điều trị (clinical
psychologist) Ana Nogales
cho rằng chỉ có những người trãi nghiệm chấn thương mới biết được cảm
giác ra sao. Nó là kinh nghiệm độc nhất và rất khó để có thể xóa nhòa từ
tâm trí một người, kéo dài nhiều năm với cường độ cảm xúc lớn lao. Ts
Nogales cho rằng chấn thương là hệ quả của nhiều tình huống khác nhau,
từ những người đã trãi qua chiến tranh, nạn nhân của bạo hành và thảm
nạn, hoặc chỉ là nhân chứng của một hành động mà làm cho họ khiếp sợ cực
độ.
Ts Diane Roberts Stoler Ed.D., nhà tâm lý thần kinh
có 35 năm kinh nghiệm chữa trị chấn thương, cho rằng chấn thương có thể
bị gây ra bởi sự mất mát đột ngột của một người mình thương yêu, hoặc
vì bị hãm hiếp, ngược đãi, bỏ bê, mất nhà, tai nạn xe, bạo lực gia đình,
thiên tai, bi kịch hay bệnh tật cá nhân, hoặc bất kỳ loại sự kiện rúng
động nào khác [2]. Nó sẽ xảy ra cho phần lớn, nếu không phải tất cả,
chúng ta, nếu sống đủ lâu, và không ai miễn nhiễm cả. Tôi biết những
người được gia đình thương yêu, bảo bọc, không một lời nói hay hành động
gây tổn thương, thế nhưng khi ra ngoài đời gặp phải môi trường thực tế
khác với gia đình, hoặc ở chỗ làm, thì khi bị phê bình, khiển trách, dù
chỉ là lời nói nhẹ nhàng thôi mà họ còn chịu không nỗi, rồi trở nên đau
khổ và trầm cảm. Nhưng dần dần họ cũng quen và khả năng chịu đựng cũng
gia tăng.
Những
cơn ác mộng, như đã xảy ra với tôi, là một trong vô số phản ứng khác
nhau đối với chấn thương. Ts tâm lý Seth J. Gillihan liệt kê 21 loại phản ứng
khác nhau khi bị chấn thương, trong đó có ác mộng (tuy không phải là
tất cả) [3]. Một dạng là tái trãi nghiệm chấn thương này: đầu óc và trí
nhớ cứ trở lại như cuốn phim không chấm dứt; ác mộng; thoáng quay lại,
nhất là khi có sự kiện hay dấu hiệu tương tự diễn ra. Dạng khác là phản
ứng đầy cảm xúc: lo sợ và lo lắng; giận dữ; buồn phiền; cảm thấy tội
lỗi; không cảm giác (numb). Dạng nữa là cố tránh những điều liên quan
đến chấn thương: cố không muốn nghĩ về biến cố đó; tránh những gì liên
quan đến biến cố đó. Dạng nữa là những thay đổi sâu sắc về cách nhìn của
mình về thế giới và chính mình: khó tin tưởng được ai; tin rằng thế
giới là cực kỳ nguy hiểm; đổ lỗi cho chính mình về hậu quả, nhất là khi
nghĩ rằng lẽ ra mình có thể giúp tránh đi bi kịch đó; nghĩ rằng lẽ ra
mình nên xử lý chấn thương khác đi; nhìn thấy mình yếu đuối hoặc bất
xứng; chỉ trích chính mình về phản ứng đối với chấn thương. Dạng khác
nữa là hệ thần kinh rất hiếu động: cảm thấy lúc nào cũng đề phòng; cảm
thấy đe dọa khắp nơi; dễ giật mình; khó ngủ; và mất hứng về tình dục,
nhất là khi mình là nạn nhân của vụ sách nhiễu tình dục.
Một
khi chấn thương quá lớn, quá khả năng bình thường của một người để đối
phó, và lại kéo dài một thời gian dài, nó có khả năng đưa đến bệnh Rối
loạn Căng thẳng Hậu Chấn thương (Post-Traumatic Stress Disorder/PTSD),
một loại chấn thương tâm lý không phải không điều trị được nhưng mất rất
nhiều thời gian để hồi phục. Triệu chứng của PTSD là rất dễ bị trở lại,
bởi nó đã ăn sâu vào tâm khảm của nạn nhân, dễ bị kích hoạt, muốn tránh
xa những gì có thể gợi lại quá khứ đau thương này, dễ bị kích thích đưa
đến mất ngủ và tập trung v.v… Nó làm cho người ta luôn lo lắng, bồn
chồn, hoảng loạn, không ngưng nghỉ, cảnh giác cao độ v.v…
Nguyên
do? Một trong các chức năng quan trọng nhất của bộ óc con người là đối
phó với mối đe dọa để sống còn. Sợ hãi có khi quá chủ quan, chưa được
đối chiếu và cân nhắc, lắm khi chưa phải nguy hiểm đến tính mạng hay
manh tính sống còn, mà hốt hoảng cả lên. Sự sợ hãi vô lý làm cho con
người mất chủ động và mất lý trí! Khi gặp đe dọa, bộ phận Amygdala trong
não được kích hoạt, tạo phản ứng chiến đấu, bỏ chạy hoặc cứng đơ
(fight, flight or freeze). Nhìn thấy đe dọa, mang tính hoàn toàn cảm
xúc, phản ứng này sẽ kích hoạt hệ thống thần kinh tự trị của mình, không
cần phải mất thời gian suy nghĩ, vì sự sống còn có khi chỉ là tích tắc,
phụ thuộc vào khả năng tìm cách ra khỏi tình huống nguy hiểm đối diện.
Tuy nhiên, nếu được hướng dẫn điều trị để biết tập luyện, biết ý thức và
chủ động được cảm xúc của mình, và tìm cách sử dụng bộ não đằng sau
trán gọi là pre-frontal cortex/PFC, thì dần dần nạn nhân sẽ điều khiển
được cảm xúc, chinh phục được sợ hãi. PTSD là trường hợp mà PFC không
còn khả năng chủ động được tình huống, để cho chấn thương tác động lên
Amygdala lấn chiếm bộ não, làm mất đi sự điều khiển đối với cảm xúc của
một người.
Dù
nguyên nhân gây ra chấn thương là gì đi nữa thì các cuộc nghiên cứu đều
đưa đến kết luận rằng PTSD liên quan đến các hoạt động của phần não mà
xử lý cảm xúc nhiều hơn, như lo sợ, và ít sử dụng phần não xử lý về lý
trí, như lý luận. Tóm lại, đối với những người bị chấn thương, và nặng
hơn, PTSD, thì phần não đã thật sự bị hư hại về cấu trúc, ít hay nhiều
tùy thuộc từng người và từng trường hợp chấn thương. Và nếu bị thường
xuyên và lâu dài, ngay cả khi lúc còn nhỏ, thì tác hại về sau sẽ vô cùng
lớn lao và khó điều trị. Chẳng hạn, một con chó thường xuyên bị một
người dùng cuốn báo liệng vào đầu nhiều lần, thì sau này nó nhìn thấy tờ
báo cuốn là hốt hoảng lên, mặc dầu người chủ mới của nó không hiểu
nguồn gốc sợ từ đâu. Con người cũng vậy, khi từng bị đánh đập, mắng
nhiếc, khủng bố tinh thần, thì từ âm thanh, cử chỉ, cây roi cho đến bất
cứ biểu tượng nào gắn liền với sự hành hạ đó, dù có trở lại mấy chục năm
sau, thì nạn nhân cũng sẽ không quên. Đó là lý do vì sao người ta có
thể tha thứ cho người mình thương yêu đã làm mình tổn thương, nhưng họ
không thể quên, dù rất muốn đi nữa. Quên là điều rất khó, trừ phi bị
lãng trí, bộ nhớ bị hỏng. Bộ óc con người được thiết kế để tồn tại, để
tránh tối đa đe dọa và hiểm nguy.
Trong
những năm qua, tôi có dịp làm việc trực tiếp cũng như gián tiếp với
nhiều người đã từng trãi qua những chấn thương khủng khiếp trong đời họ.
Tuy không phải là một nhà tâm lý và không được đào tạo chuyên môn trong
lĩnh vực này, tôi đã được gửi đi đào tạo các khóa ngắn hạn về lĩnh vực
này, và cũng tự mình tìm hiểu thêm qua sách vở, báo chí và kinh nghiệm
thực tiễn. Lý do tôi được gửi đi đào tạo là vì nếu tôi tiếp xúc thường
xuyên và lâu dài với những người từng trãi nghiệm chấn thương, tôi vẫn
có thể bị chấn thương gián tiếp (vicarious trauma). Nó tích tụ dần dần,
mà nếu không để ý và kiểm soát bằng ý thức, đến một lúc nào đó chính
mình bị vạ lây. Nó gia tăng căng thẳng và thay đổi tính tình, rồi thay
đổi suy nghĩ và hành động của mình. Một người làm việc trong tình huống
này cần phải ý thức và cảnh giác để không bị rơi vào trạng thái căng
thẳng và mất chủ động. Tóm lại, chúng ta cần ý thức tập luyện và vận
dụng phần não lý trí PRC để điều khiển cảm xúc và kiểm soát mối đe dọa
một cách thực tế, đừng để Amygdala cướp điều khiển.
Qua
kinh nghiệm bản thân, qua lý thuyết và những nghiên cứu chuyên môn
nghiêm túc của các học giả uy tín, và qua các bài học lịch sử, tôi nhận
ra được ba bài học.
Một,
không một ai miễn nhiễm từ chấn thương cả. Những người được bao bọc và
che chở đến mấy thì một lúc nào đó, khi chấn thương xảy ra, họ sẽ dễ suy
sụp và đổ gẫy hơn là những người được hướng dẫn, cung cấp thông tin và
nâng đỡ, đặc biệt từ nhỏ. Vì thế điều quan trọng là xây dựng một thể lực
cường tráng, một tinh thần vững chắc, trong đó kiên trì và không ngại
thất bại là chìa khóa. Khi càng tìm hiểu về những lãnh đạo quốc gia lỗi
lạc của Hoa Kỳ, như Abraham Lincoln, Theodore Roosevelt, hay Franklin
Roosevelt, họ đều trãi qua nhiều chấn thương, cũng bị khủng hoảng tinh
thần, bị trầm cảm một thời gian dài, và từ từ vực dậy từ những chấn
thương lớn lao đó. Như đã chia sẻ trong bài trước, Leigh Sales và John
Roberts (từng bị đột quỵ hai lần, năm 1993 và 2007) cũng đều trãi qua
chấn thương lớn trong đời. Tất cả những trãi nghiệm này giúp cho họ mạnh
mẽ khi hiểu được yếu điểm của mình, và qua đó giúp cho họ có sự cảm
thông và đồng cảm với những công dân bình thường trong xã hội. Điều đó
làm cho họ kiên trì hơn thay vì yếu đuối. Tình thương và đồng cảm chính
là sức mạnh.
Hai,
một người chưa từng trãi, chưa nếm mùi cay đắng, chưa từng thất bại,
chưa ở trong địa vị người khác, thì khó thể nào hiểu được những gì người
đó đã trãi qua, những cảm nhận và những ảnh hưởng đến tâm lý của họ.
Không có sự cảm nhận thì khó có sự thông cảm, khoan nói đến đồng cảm.
Cảm thông (sympathy),
kể cả thương hại người khác, vì thấy họ đau khổ, hoạn nạn, là mức độ
thấp. Đồng cảm (empathy), là biết đặt mình vào địa vị của người khác để
thấu hiểu, để biết những cảm xúc họ trãi qua, để từ đó chia sẻ những cảm
xúc và buồn phiền của họ [4]. Bài phát biểu của Tổng Chánh án John
Roberts, như đề cập trong bài trước, hoàn toàn có mục đích chia sẻ với
các em học sinh các giá trị nền tảng để họ phát huy tinh thần khiêm tốn
và khả năng đồng cảm, và để các em sau này trở thành những công dân hữu
ích cho xã hội, chứ không phải là những cá nhân ích kỷ, thủ đoạn và sẵn
sàng chà đạp lên người khác để leo lên đỉnh cao danh vọng.
Ba,
khi biết được nguyên lý rằng tất cả chúng ta đều là con người, đều dễ
bị tổn thương (vulnerable), thì sự đoàn kết hay thống nhất cho mục tiêu
chung dễ đạt được. Bởi chúng ta hiểu rằng đến một lúc nào đó, lúc mà ai
cũng đều có những chấn thương khi trãi đời, và ai cũng bằng da bằng
thịt, cũng đạn bắn xuyên thủng, thì ai cũng như nhau. Như thế, thay vì
phân biệt đối xử, thay vì mạt sát nhau vì khác biệt quan điểm chính trị
hay tôn giáo, chẳng hạn, thì chúng ta nhận ra rằng mình không nên đối xử
với người khác những gì mà mình không muốn bị đối xử. Cùng nhau xây
dựng một xã hội văn minh, dựa trên pháp luật chứ không phải sự tùy tiện
của con người có lúc này lúc kia (the rule of law, not of man), thì rất
cả mọi người hôm nay và các thế hệ mai sau đều được hưởng. Còn không thì
quyền lực rơi vào tay một thiểu số, và mọi tai họa, hư hỏng, tham
nhũng, từ đó mà ra.
Có
được sự cảm thông, hoặc cao hơn, sự đồng cảm, chúng ta dễ dàng chấp
nhận khác biệt, và sẵn sàng lên tiếng bảo vệ cho những người bị phân
biệt đối xử, bị luật pháp ngược đãi, hoặc bị đẩy ra ngoài lề xã hội.
Tinh thần tương thân tương trợ, có qua có lại, hỗ tương, tiếng Anh là
reciprocity, chính là nền tảng của những xã hội dân chủ phát triển bền
vững. Mặc dầu trên bình diện cá nhân ai cũng có vẻ tính toán, nhưng nhìn
kỹ thì tinh thần công dân đối với trách nhiệm chung được duy trì và
phát huy tối đa. Bởi phần lớn các công dân trong xã hội này hiểu rằng
khi một tiếng nói, một bi kịch, một chuyện phi lý bất công xảy ra cho
một người mà luật pháp không bảo vệ được họ, thì xác suất xảy ra cho tất
cả mọi người khác cũng rất cao, là nguy cơ dành chỗ dẫn đến nạn cường
quyền.
Mỗi
cá nhân, và mỗi dân tộc, trong suốt chiều dài lịch sử, đều trãi qua
những chấn thương rất lớn, có khi quá lớn, để có thể vượt qua. Chiến
tranh, nhất là nội chiến, là một trong các chấn thương lớn như thế.
Nhưng sau mỗi chấn thương, dù đó là ngoại xâm hay nội chiến, vấn đề quan
yếu là lãnh đạo quốc gia chủ trương ra sao, chính sách và hành động cụ
thể là gì, để hàn gắn vết thương của dân tộc hầu xây dựng lại tiềm năng
quốc gia cho mục tiêu phát triển, cho tương lai của đất nước và các thế
hệ mai sau, thay vì vẫn cứ tiếp tục các chính sách phân biệt đối xử với
tâm lý hận thù không dứt?
Một
chính quyền thật sự quan tâm đến vận nước lẽ ra phải làm sao toàn dân
tộc có thể phát huy phần não lý trí Pre-frontal Cortex thay vì chủ
trương sử dụng và áp đặt phần não cảm tính Amygdala lên họ!
Phạm Phú Khải (VOA)
Úc Châu, 11/04/2019
Tài liệu tham khảo:
1. Ana Nogales, “Trauma”, Psychology Today, 19 February 2014.
2. Diane Roberts Stoler Ed.D, “Trauma and PTSD: More Common Than You Think”, Psychology Today, 18 March 2019.
3. Seth J. Gillihan, “21 Common Reactions to Trauma”, Psychology Today, 7 September 2016.
4. Neel Burton, “Empathy Vs Sympathy”, Psychology Today, 19 February 2014.