Giới thiệu tóm tắt “Tại sao các quốc gia thất bại” (Đoạn 6) (Nguyễn Đình Cống)
Như một hệ quả của những khác biệt ban đầu này, mỗi nước đã đáp lại
một cách khác nhau đối với những thách thức của thế kỷ thứ mười chín, và
Nhật Bản và Trung Quốc đã phân kỳ một cách đầy kịch tính khi đối mặt
với bước ngoặt do Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Trong khi các thể chế
Nhật Bản đã được biến đổi và nền kinh tế đã bước lên con đường tăng
trưởng nhanh, thì ở Trung Quốc các lực thúc đẩy sự thay đổi thể chế đã
không đủ mạnh, và các thể chế khai thác đã tồn tại dai dẳng phần lớn
không giảm sút cho đến khi chúng đổi sang hướng tồi tệ với cách mạng
cộng sản của Mao trong năm 1949.
Chương 10: SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG
VINH DỰ GIỮA NHỮNG KẺ CẮP
Nước Anh thế kỷ 18 đã có một giải pháp đơn giản để xử lý các phạm
nhân: Họ đã đày nhiều [phạm nhân] đến các thuộc địa trong đế chế.
Một đội tàu nhồi đầy các tù nhân đã đến Vịnh Botany năm 1788. Họ đã dựng trại ở Vũng Sydney, thuộc địa mới New South Wales.
Thuộc địa tù New South Wales gồm các tù nhân và những lính. Ðã có ít
“người định cư tự do” ở Australia cho đến các năm 1820, và việc đày tù
nhân, dù đã ngừng ở New South Wales trong năm 1840, đã tiếp tục cho đến
1868 ở Tây Australia. Các tù nhân đã phải thực hiện “công việc ép buộc”.
Tất nhiên đã có những người Aboriginal, có lẽ đông đến một triệu vào
thời thành lập New South Wales. Nhưng họ đã ở rải rác khắp một lục địa
mênh mông, và mật độ của họ ở New South Wales đã không đủ cho việc tạo
ra một nền kinh tế dựa trên sự bóc lột họ. Ðã không có lựa chọn Mỹ Latin
nào ở Australia.
Những người lính canh giữ cũng được hưởng lợi từ quyền tự do kinh tế
của các tù nhân. Sản xuất đã tăng lên, và những người canh giữ đã dựng
lên các độc quyền để bán hàng hóa cho các tù nhân. Món hàng béo bở nhất
trong số này đã là rượu rum.
Gốc rễ của cuộc Phiến loạn Rum đã là kinh tế. Chiến lược trao cho các
tù nhân các khuyến khích đã làm ra rất nhiều tiền cho những người như
Macarthur, người đã đến Australia như một người lính trong nhóm tàu thứ
hai cập bến năm 1790. Năm 1796 ông giải ngũ rời quân đội để tập trung
vào kinh doanh. Vào thời đó ông đã có con cừu đầu tiên của mình, và đã
nhận ra rằng có thể kiếm được rất nhiều tiền trong chăn nuôi cừu và xuất
khẩu len. Macarthur chẳng bao lâu đã là người giàu nhất Australia, ông
và các ông trùm cừu bạn ông đã được biết đến như những Kẻ Chiếm Ðất
(Squatter), vì đất mà trên đó họ cho cừu ăn đã không phải là đất của họ.
Nó là đất do chính phủ Anh sở hữu. Nhưng lúc đầu đấy đã là một chi tiết
nhỏ. Những Kẻ Chiếm Ðất đã là giới elite của Australia, hay, thỏa đáng
hơn, Chế độ Chiếm đất (Squattocracy).
Các tù nhân đã là lực lượng lao động duy nhất, và cách duy nhất đến
khuyến khích họ đã là trả lương cho họ đối với công việc họ làm. Không
bao lâu sau các tù nhân đã được phép trở thành các doanh nhân khởi
nghiệp và thuê các tù nhân khác. Ðáng chú ý hơn, thậm chí họ đã được
trao đất sau khi mãn hạn tù, và tất cả các quyền của họ đã được phục
hồi. Một vài trong số họ đã trở nên giàu có, ngay cả Henry Cable mù chữ
nữa. Vào năm 1798 ông đã sở hữu một khách sạn được gọi là Ramping Horse,
và ông cũng đã có một cửa hàng. Ông đã mua một chiếc tàu và lao vào
buôn da chó biển..
Xung đột tiếp theo ở New South Wales đã là giữa elite và phần còn lại
của xã hội, gồm có các tù nhân, các cựu tù nhân, và gia đình họ. Elite,
dẫn đầu bởi những người canh giữ trước kia và các binh lính như
Macarthur. Chính phủ Anh đã cử John Bigge đến thuộc địa vào năm 1819 để
đứng đầu một ủy ban điều tra về những sự phát triển ở đó. Bigge đã bị
sốc bởi các quyền mà các tù nhân được hưởng và đã ngạc nhiên bởi bản
chất dung hợp căn bản của các thể chế kinh tế của thuộc địa tù này.
Trong lúc Bigge đã thử vặn lại đồng hồ, các cựu tù nhân và con trai
và con gái họ đã đòi hỏi nhiều quyền hơn. Quan trọng nhất, họ đã nhận
ra, lại hệt như ở Hoa Kỳ, rằng để củng cố các quyền kinh tế và chính trị
của họ một cách đầy đủ họ cần đến các thể chế chính trị mà sẽ bao hàm
họ trong quá trình ra quyết định. Họ đã đòi hỏi các cuộc bầu cử mà trong
đó họ có thể tham gia như những người ngang hàng và các thể chế đại
diện và các hội đồng mà trong đó họ có thể giữ các chức vụ.
Các cựu tù nhân và các con của họ đã được lãnh đạo bởi nhà văn sôi
nổi, nhà thám hiểm, và nhà báo William Wentworth. Vào lúc này, Wentworth
đã là một người ủng hộ mạnh mẽ các thể chế chính trị dung hợp hơn, một
quốc hội được bầu, sự xét xử bởi bội thẩm đoàn đối với các cựu tù nhân
và gia đình của họ, và một sự chấm dứt lưu đày sang New South Wales. Ông
đã bắt đầu một tờ báo, tờ Australian, mà từ đó trở đi hướng
dẫn cuộc tấn công lên các thể chế chính trị hiện tồn. Macarthur đã không
thích Wentworth và chắc chắn đã không thích cái ông đòi.
Sự phản đối mãnh liệt của Macarthur và những Kẻ Chiếm Ðất, tuy vậy,
đã không thể chặn trào lưu ở Australia. Việc đòi các thể chế đại diện đã
mạnh mẽ và đã không thể bị dập tắt. Vào các năm 1850, Australia đã đưa
ra quyền đi bầu cho người da trắng trưởng thành. Các đòi hỏi của các
công dân, các cựu tù nhân và gia đình của họ, bây giờ đã vượt xa mức mà
William Wentworth đầu tiên đã hình dung. Hoàn cảnh ban đầu ở Sydney, New
South Wales, đã rất giống hoàn cảnh ở Jamestown, Virginia, 181 năm
trước.
Australia, giống Hoa Kỳ, đã trải qua một con đường khác đến các thể
chế dung hợp so với con đường Anh đã đi. Ở nước Anh đã có một lịch sử
dài về sự cai trị chuyên chế mà đã bám sâu và đã cần đến một cuộc cách
mạng để xóa bỏ nó. Ở Hoa Kỳ và Australia, đã không có thứ như vậy. Mặc
dù Lord Baltimore ở Maryland và John Macarthur ở New South Wales đã có
thể mong mỏi một vai trò như vậy, họ đã không thể thiết lập một sự kìm
kẹp đủ mạnh lên xã hội để cho các kế hoạch của họ ra quả. Các thể chế
dung hợp được thiết lập ở Hoa Kỳ và Australia đã có nghĩa rằng Cách mạng
Công nghiệp lan nhanh chóng đến các miền đất này và chúng bắt đầu trở
nên giàu. Con đường mà các nước này đi đã được các thuộc địa như Canada
và New Zealand noi theo.
Ðã vẫn có những con đường khác đến các thể chế dung hợp. Các phần lớn
của Tây Âu đã đi một con đường thứ ba đến các thể chế dung hợp dưới sự
thúc đẩy của Cách mạng Pháp, mà đã lật đổ chính thể chuyên chế ở Pháp và
rồi đã gây ra một chuỗi các xung đột giữa các quốc gia mà đã truyền bá
cải cách thể chế ngang qua phần lớn Tây Âu. Hệ quả kinh tế của những cải
cách này đã là sự nổi lên của các thể chế kinh tế dung hợp ở hầu hết
Tây Âu, Cách mạng Công nghiệp, và tăng trưởng kinh tế.
PHÁ VỠ CÁC RÀO CẢN: CÁCH MẠNG PHÁP
Cách mạng Pháp đã là một việc cấp tiến. Ngày 4 tháng Tám năm 1789,
Quốc hội Lập hiến đã thay đổi hoàn toàn các luật bằng một hiến pháp mới.
Ðiều thứ nhất nói rõ:
Quốc hội bằng cách này xóa bỏ hoàn toàn hệ thống phong kiến. Nó ra
sắc lệnh rằng, giữa các quyền và thuế hiện tồn, cả phong kiến và địa tô,
tất cả những thứ hình thành trong hay tượng trưng cho thân phận nông nô
thực hay cá nhân sẽ bị xóa bỏ mà không có sự bồi thường nào.
Như thế, trong một cú đột kích, Cách mạng Pháp đã xóa bỏ hệ thống
phong kiến và mọi giao ước và thuế mà nó đã đòi hỏi, và nó đã bãi bỏ
toàn bộ những sự miễn thuế của giới quý tộc và tăng lữ. Nhưng có lẽ cái
đã là cấp tiến nhất, thậm chí không thể tưởng tượng nổi vào thời ấy, đã
là điều thứ mười một nói rõ:
Tất cả mọi công dân, không phân biệt dòng dõi, đều có quyền đối với
bất cứ chức vụ hay chức tước cao nào, bất luận tu sĩ, dân sự, hay quân
sự; và không nghề nào sẽ ngụ ý bất cứ sự xúc phạm nào.
Những cải cách này đã là bước đầu tiên theo hướng chấm dứt thế lực
của các quốc vương Pháp chuyên chế. Nhờ nó, mà nước Pháp đã không bị sập
bẫy với các thể chế chiếm đoạt ngăn cản tăng trưởng kinh tế và thịnh
vượng,
Trước cách mạng, Louis XIV đã cai trị mà không triệu tập Hội Ðồng.
Dưới triều ông, Pháp đã đạt sự tăng trưởng kinh tế nào đó – thí dụ, tham
gia vào thương mại Ðại Tây Dương và thuộc địa. Bộ trưởng tài chính có
tài của Louis, Jean-Baptiste Colbert, cũng đã trông coi việc phát triển
công nghiệp do chính phủ tài trợ và do chính phủ kiểm soát, một loại của
sự tăng trưởng khai thác.
Mặc dù đã có một chút tăng trưởng kinh tế, vào thời Louis XVI lên nắm
quyền trong năm 1774, tuy nhiên đã có những thay đổi lớn trong xã hội.
Các vấn đề tài khóa trước đây đã biến thành một khủng hoảng, và Chiến
tranh Bảy Năm với Anh giữa 1756 và 1763, trong đó Pháp đã mất Canada, đã
đặc biệt tốn kém.
Trong thời gian đó, tâm trạng trong nước, và đặc biệt ở Paris, đã trở
nên cấp tiến hơn. Quốc hội Lập Hiến đã thông qua phiên bản cuối cùng
của hiến pháp ngày 29 tháng Chín, 1791, biến Pháp thành một nền quân chủ
lập hiến.
Nhưng sự năng động của cách mạng sau đó đã bị thay đổi một cách không
thể đảo ngược bởi cuộc chiến tranh nổ ra năm 1792 giữa Pháp và “liên
minh đầu tiên,” do Áo dẫn đầu. Kết quả của quá trình này đã là giai đoạn
được biết đến như Khủng bố, dưới sự chỉ huy của phe Jacobin do
Robespierre và Saint-Just lãnh đạo, được tháo tung ra sau việc hành
quyết Louis XVI và Marie Antoinette.
Nhưng Khủng bố đã chẳng mấy chốc vượt khỏi vòng kiểm soát và cuối
cùng đã đi đến kết thúc vào tháng Bảy năm 1794 với việc tử hình các lãnh
tụ của chính nó, kể cả Robespierre và Saint-Just. Tiếp theo đã là một
thời kỳ ổn định tương đối, đầu tiên dưới thời của Hội đồng Ðốc chính
(Directory) hơi kém hiệu quả, giữa 1795 và 1799, và sau đó với quyền lực
được tập trung hơn dưới dạng một Chế độ tổng tài (Consulate) ba người,
gồm có Ducos, Sieyès, và Napoleon Bonaparte. Ngay dưới thời Hội đồng Ðốc
chính, vị tướng trẻ Napoleon Bonaparte đã trở nên nổi tiếng rồi vì các
thành công quân sự của ông, và ảnh hưởng của ông đã chỉ tăng lên sau
1799. Chế độ tổng tài chẳng bao lâu sau đã biến thành sự cai trị cá nhân
của Napoleon.
Các năm giữa 1799 và sự kết thúc của triều đại Napoleon, 1815, đã
chứng kiến một chuỗi chiến thắng quân sự vĩ đại cho nước Pháp, kể cả
chiến thắng tại Austerlitz, Jena-Auerstadt, và Wagram, bắt châu Âu lục
địa quỳ gối. Các lực được tháo ra bởi cách mạng 1789 đã chấm dứt chính
thể chuyên chế Pháp và một cách không thể tránh khỏi, cho dù chậm chạp,
đã dẫn đến sự nổi lên của các thể chế dung hợp Pháp, và các phần của châu
Âu nơi các cuộc cải cách cách mạng đã được xuất khẩu sang, sẽ tham gia
vào quá trình công nghiệp hóa đang tiến triển trong thế kỷ thứ mười
chín.
XUẤT KHẨU CÁCH MẠNG
Trước Cách mạng Pháp, đã có những hạn chế nghiêm ngặt đối với những người Do thái khắp châu Âu.
Khi Cách mạng Pháp nổ ra, Rothschild, đã sống tại Frankfurt (Đức).
Vào đầu các năm 1780, Rothschild đã xác lập mình như một thương nhân
hàng đầu về tiền đúc, kim loại, và đồ cổ ở Frankfurt. Nhưng giống tất cả
những người Do Thái trong thành phố, ông đã không thể mở một doanh
nghiệp bên ngoài khu dành riêng ghetto, hay thậm chí sống ở ngoài
ghetto.
Năm 1791 Quốc hội Pháp đã giải phóng dân Do Thái Pháp. Ở Frankfurt
tác động của chúng đột ngột hơn và có lẽ hơi không chủ tâm. Năm 1796
những người Pháp đã oanh tạc Frankfurt, Khoảng hai ngàn người Do Thái đã
bị bỏ vô gia cư và đã phải chuyển ra ngoài ghetto. Nhà Rothschild đã ở
trong số những người này.
Vào cuối thập kỷ, Rothschild đã là một trong những người Do Thái giàu
nhất Frankfurt và đã là một nhà kinh doanh có uy tín lâu rồi. Sự giải
phóng toàn bộ đã còn phải đợi đến 1811.
Ðây đã không là một sự kiện cô lập. Ðầu tiên các Ðội quân Cách mạng
Pháp và rồi Napoleon đã xâm chiếm các phần lớn của châu Âu lục địa, và
trong hầu như tất cả các vùng mà họ xâm chiếm, các thể chế hiện tồn đã
là các tàn dư của thời trung cổ. Các lãnh tụ của Cách mạng Pháp và, sau
đó, Napoleon đã xuất khẩu cách mạng sang các vùng đất này, tiêu diệt
chính thể chuyên chế, và áp đặt sự bình đẳng trước luật. Cách mạng Pháp
như thế đã chuẩn bị không chỉ nước Pháp mà phần lớn của phần còn lại của
châu Âu cho các thể chế dung hợp và sự tăng trưởng kinh tế mà những thể
chế này khích lệ. Các đội quân Cách mạng Pháp mau chóng đã bắt đầu thực
hiện một quá trình cải cách triệt để trong các vùng mà họ đã chinh
phục, xóa bỏ các vết tích còn lại của chế độ nông nô và các quan hệ đất
đai phong kiến.
Cái đã được bắt đầu bởi các Ðội quân Cách mạng Pháp đã được tiếp tục,
dưới hình thức này hay hình thức khác, bởi Napoleon. Quan trọng nhất,
ông đã hệ thống hóa luật La Mã và các tư tưởng về bình đẳng trước luật
vào một hệ thống pháp luật mà được biết đến như Bộ Luật [Code] Napoleon.
Napoleon đã coi bộ luật này như di sản lớn nhất của ông và đã muốn áp
đặt nó ở mọi lãnh thổ ông kiểm soát.
Tất nhiên, những cải cách được áp đặt bởi Cách mạng Pháp và Napoleon
đã không phải là không thể bị đảo ngược. Ở một số nơi, như ở Hanover,
Ðức, các elite cũ đã được phục hồi không lâu sau sự sụp đổ của Napoleon
và phần lớn cái những người Pháp đạt được đã bị mất vĩnh viễn. Xét cho
cùng, các đội quân Pháp đã gây ra nhiều đau khổ ở châu Âu, nhưng chúng
cũng đã làm thay đổi triệt để tình hình (địa hình địa thế). Trong phần
lớn châu Âu đã biến mất các quan hệ phong kiến. Những thay đổi này đã
tạo ra các thể chế kinh tế dung hợp mà sau đó cho phép công nghiệp hóa
bén rễ. Vào giữa thế kỷ thứ mười chín, công nghiệp hóa đã tiến triển
nhanh trong hầu hết các nơi mà người Pháp kiểm soát, trong khi những nơi
như Áo-Hungary và Nga, mà người Pháp đã không chinh phục, hay Ba Lan và
Tây Ban Nha, nơi ảnh hưởng Pháp đã là tạm thời và hạn chế, nhìn chung
vẫn trì trệ.
TÌM KIẾM TÍNH HIỆN ÐẠI
Vào mùa thu 1867, Toshimichi, một cận thần hàng đầu của lãnh địa
phong kiến Satsuma, Nhật bản, đã đi từ kinh đô đến thành phố Yamaguchi.
Ông đã gặp các lãnh đạo của lãnh địa Chōshū, có một kiến nghị: họ phải
kết hợp lực lượng, hành quân về kinh đô, và lật đổ shogun, nhà cai trị
Nhật Bản. Vào lúc này Toshimichi đã thuyết phục được các lãnh đạo của
các lãnh địa Tosa và Aki rồi. Một khi các lãnh đạo của Chōshū hùng mạnh
đồng ý, một Liên minh Satcho bí mật hình thành.
Trong năm 1868 Nhật Bản đã là một nước chậm phát triển về mặt kinh
tế, từ năm 1600 bị kiểm soát bởi gia đình Tokugawa, mà kẻ cai trị của nó
đã lấy tước hiệu shogun (người chỉ huy) trong năm 1603. Hoàng đế Nhật
Bản đã bị cho ra ngoài lề và chỉ đảm đương vai trò nghi thức thuần túy.
Toshimichi bây giờ đã ngày càng được thuyết phục rằng Nhật Bản cần
lật đổ chế độ shogun phong kiến, và cuối cùng ông đã thuyết phục được
Shimazu Hisamitsu. Ðể tập hợp sự ủng hộ cho sự nghiệp của họ, họ đã gói
ghém nó trong sự phẫn uất cao độ vì việc đẩy hoàng đế ra ngoài lề. Thỏa
ước Ōkubo Toshimichi đã ký với lãnh địa Tosa là cấp tiến, và mặc dù điều
1 tuyên bố rằng “quyền lực chính trị của đất nước phải được trả lại cho
Triều Ðình Hoàng đế, và mọi sắc lệnh được ban hành bởi Triều Ðình,” nó
đã bao gồm sự khôi phục hoàng đế rất nhiều. Các điều 2, 3, 4, và 5 tuyên
bố:
2. Hai cơ quan lập pháp, Thượng viện và Hạ viện, phải được thiết lập,
và mọi biện pháp của chính phủ phải được quyết định trên cơ sở ý kiến
chung.
3. Những người có năng lực giữa các lãnh chúa, các quý tộc và nhân
dân nói chung phải được dùng như các ủy viên hội đồng, và các chức vụ
truyền thống của quá khứ mà đã mất mục đích của chúng phải bị bãi bỏ.
4. Công việc đối ngoại phải được thực hiện theo các quy chế thích hợp được soạn ra trên cơ sở ý kiến chung.
5. Luật pháp và các quy định của các thời trước phải được xếp sang một bên và một bộ luật mới và phù hợp phải được chọn.
Shogun Yoshinobu đã đồng ý từ chức, và vào ngày 3 tháng Giêng, 1868,
Minh Trị Duy Tân (Meiji Restoration) đã được tuyên bố. Mặc dù các lực
lượng Satsuma và Chōshū bây giờ đã chiếm kinh đô và thủ đô đế chế Kyōto,
họ đã sợ nhà Tokugawas sẽ thử lấy lại quyền lực và tái lập chế độ
shogun. Toshimichi đã muốn nhà Tokugawas bị nghiền nát vĩnh viễn. Ông đã
thuyết phục hoàng đế bãi bỏ lãnh địa Tokugawa và sung công đất của họ.
Ngày 27 tháng Giêng cựu shogun Yoshinobu đã tấn công các lực lượng
Satsuma và Chōshū, và nội chiến đã nổ ra; nó đã diễn ra ác liệt cho đến
mùa hè, khi cuối cùng nhà Tokugawa bị đánh bại.
Tiếp sau Minh Trị Duy Tân đã có một quá trình cải cách biến đổi ở Nhật Bản.
Giữa thế kỷ 19, cả Trung Quốc và Nhật Bản đã là các quốc gia nghèo,
tiều tụy dưới các chế độ chuyên chế. Chế độ chuyên chế ở Trung Quốc đã
tỏ vẻ nghi ngờ sự thay đổi trong hàng thế kỷ. Mặc dù đã có nhiều sự
giống nhau giữa Trung Quốc và Nhật Bản, cũng đã có những khác biệt chính
trị đáng chú ý. Trung Quốc đã là một đế chế quan liêu tập trung được
cai trị bởi một hoàng đế chuyên chế. Cấu trúc của các thể chế chính trị
Nhật Bản đã là khác. Chế độ shogun đã dẹp hoàng đế sang bên lề, nhưng
như chúng ta đã thấy, quyền lực của nhà Tokugawa đã không phải là tuyệt
đối, và các lãnh địa như lãnh địa Satsumas đã duy trì sự độc lập, thậm
chí cả khả năng để tiến hành buôn bán với nước ngoài nhân danh chính họ.
Như một hệ quả của những khác biệt ban đầu này, mỗi nước đã đáp lại
một cách khác nhau đối với những thách thức của thế kỷ thứ mười chín, và
Nhật Bản và Trung Quốc đã phân kỳ một cách đầy kịch tính khi đối mặt
với bước ngoặt do Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Trong khi các thể chế
Nhật Bản đã được biến đổi và nền kinh tế đã bước lên con đường tăng
trưởng nhanh, thì ở Trung Quốc các lực thúc đẩy sự thay đổi thể chế đã
không đủ mạnh, và các thể chế khai thác đã tồn tại dai dẳng phần lớn
không giảm sút cho đến khi chúng đổi sang hướng tồi tệ với cách mạng
cộng sản của Mao trong năm 1949.
GỐC RỄ CỦA SỰ BẤT BÌNH ÐẲNG THẾ GIỚI
Chương này và ba chương trước đã kể câu chuyện về các thể chế kinh tế
và chính trị dung hợp đã nổi lên như thế nào ở nước Anh để làm cho Cách
mạng Công nghiệp là có thể, và vì sao một số nước nào đó đã được lợi từ
Cách mạng Công nghiệp và đã bước lên con đường tăng trưởng, trong khi
các nước khác đã không hay, thực ra, đã kiên quyết từ chối việc cho phép
thậm chí sự bắt đầu công nghiệp hóa. Liệu một nước đã có bắt đầu công
nghiệp hóa hay không phần lớn đã là một chức năng của các thể chế của
nó. Hoa Kỳ, mà đã trải qua một sự biến đổi giống như Cách mạng Vinh
quang Anh, đã phát triển kiểu riêng của mình về các thể chế chính trị và
kinh tế dung hợp vào cuối thế kỷ thứ mười tám. Nó như thế trở thành
quốc gia đầu tiên để lợi dụng các công nghệ mới đến từ các Ðảo Anh, và
chẳng bao lâu sau vượt qua Anh và trở thành người mở đường của công
nghiệp hóa và thay đổi công nghệ. Australia đã đi theo một con đường
tương tự.
Australia đã có thể khởi đầu quá trình riêng của mình về tăng trưởng
kinh tế. Australia và Hoa Kỳ đã có thể công nghiệp hóa và phát triển
nhanh bởi vì các thể chế tương đối dung hợp của họ đã không ngăn chặn
các công nghệ mới, sự đổi mới, hay sự phá hủy có tính sáng tạo.
Không phải vậy ở hầu hết các thuộc địa Âu châu khác. Sự năng động của
họ là hoàn toàn ngược với sự năng động ở Australia và Hoa Kỳ. Tại một
số trong các nơi này họ đã tiệt trừ một cách tường minh bất cứ ngành
công nghiệp đang đâm chồi nào hay các thể chế kinh tế dung hợp nào đã
tồn tại. Hầu hết các nơi này không ở trong trạng thái để được lợi từ sự
công nghiệp hóa trong thế kỷ thứ mười chín hay thậm chí trong thế kỷ thứ
hai mươi.
Ở nơi khác trên thế giới, chính thể chuyên chế đã có sức bật như ở
Ðông Âu. Ðiều này đã đặc biệt đúng ở Trung Quốc, nơi sự chuyển tiếp
Minh-Thanh đã dẫn đến một nhà nước cam kết xây dựng một xã hội nông
nghiệp ổn định và thù địch với thương mại quốc tế. Nhật Bản đã phản ứng
theo cùng cách như Tây Âu. Cuộc cách mạng được lãnh đạo bởi các lãnh
chúa phản đạo của các lãnh địa Satsuma, Chōshū, Tosa, và Aki. Các lãnh
chúa này đã lật đổ shogun, tạo ra Minh Trị Duy Tân, và đã chuyển Nhật
Bản lên con đường cải cách thể chế và tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta cũng đã thấy rằng chính thể chuyên chế đã có sức bật ở
Ethiopia cô lập. Ở nơi khác trên lục địa, chính cùng lực của thương mại
quốc tế mà đã giúp biến đổi các thể chế Anh trong thế kỷ thứ mười bảy,
lại đã siết chặt các phần lớn của miền tây và trung châu Phi vào các
thể chế hết sức chiếm đoạt thông qua buôn bán nô lệ. Việc này đã phá hủy
các xã hội ở một số nơi và đã dẫn đến việc tạo ra các nhà nước nô dịch ở
một số nơi khác. Ðộng học thể chế mà chúng ta mô tả cuối cùng đã xác
định những nước nào tận dụng được lợi thế của các cơ hội hiện diện trong
thế kỷ thứ mười chín trở đi và những nước nào đã không làm như vậy. Gốc
rễ của sự bất bình đẳng thế giới mà chúng ta quan sát thấy ngày nay có
thể thấy trong sự phân kỳ này. Với vài ngoại lệ, các nước giàu ngày nay
là các nước đã bước chân vào quá trình công nghiệp hóa và thay đổi công
nghiệp bắt đầu trong thế kỷ thứ mười chín, và các nước nghèo là các nước
đã không làm vậy.
Chương 11: VÒNG THIỆN
BỘ LUẬT ÐEN
Lâu đài Windsor, phía tây London, là một trong những dinh thự hoàng
gia lớn của nước Anh. Ðầu thế kỷ thứ mười tám, lâu đài đã được bao quanh
bởi một rừng lớn, đầy nai.
Những “Kẻ Mặt Ðen [Black]” bí ẩn là các nhóm các đàn ông địa phương,
đã bôi đen mặt mình để che giấu diện mạo của họ vào ban đêm. Chúng đã
giết và làm tàn tật nai và các thú vật khác, đốt các đống rơm và các kho
thóc, phá hoại hàng rào và các hồ cá. Theo bề ngoài đã là tình trạng vô
luật pháp hoàn toàn, nhưng không phải. Các Black đã không chỉ săn trộm
nai để ăn; chúng cũng đã cố tình phá hoại. Vì mục đích gì?
Một khối xây dựng (building block) cốt yếu của Cách mạng Vinh quang
năm 1688 đã là bản chất đa nguyên của các lợi ích được đại diện trong
Quốc hội Ðảng chính trị Whig, được thành lập trong các năm 1670 để đại
diện cho các lợi ích buôn bán và kinh tế mới, đã là tổ chức chính ở đằng
sau Cách mạng Vinh quang, và các đảng viên Whig đã chi phối Quốc hội từ
1714 đến 1760. Một khi đã nắm quyền lực, họ đã thử sử dụng vị trí mới
kiếm được của mình để làm hại các quyền của những người khác, để cũng có
miếng bánh của mình. Bản chất đa nguyên của xã hội đã nổi lên từ Cách
mạng Vinh quang cũng đã có nghĩa rằng dân cư nói chung, ngay cả những
người không có sự đại diện chính thức trong Quốc hội, đã được trao
quyền, và “sự bôi đen mặt-blacking” đã chính xác là một phản ứng bởi
người dân thường đối với cảm nhận rằng các đảng viên Whig đã lợi dụng
địa vị của họ.
William Cadogan, một tướng có nhiều công trạng, mua một bất động sản
lớn khoảng một ngàn mẫu, xây một tòa nhà lớn và một vườn nai 240-mẫu.
Tài sản này đã được củng cố bằng việc vi phạm các quyền của những người ở
xung quanh. Người dân bị đuổi, Cadogan đã đối mặt với sự phẫn nộ của
dân. Vườn nai đã bị tấn công bất ngờ bởi những Kẻ Mặt Ðen (Black). Bất
động sản của nhiều địa chủ có tiếng và các chính trị gia cũng đã bị các
Black tấn công.
Chính phủ không để cho việc này yên. Tháng Năm 1723, Quốc hội đã
thông qua Ðạo luật Ðen (Black Act), tạo ra năm mươi tội mới bị trừng
phạt bằng treo cổ. Sự hận thù của các Black địa phương mau chóng được
châm ngòi.
1724, John Huntridge, đã bị buộc tội giúp đỡ những kẻ đánh cắp nai và
xúi bẩy các Black quen biết, cả hai tội có thể bị trừng phạt bằng treo
cổ. Việc khởi tố Huntridge đã đến từ trên đỉnh, Sự kết tội đã là một kết
luận bỏ túi được định trước, nhưng đã không thế. Sau một phiên xử kéo
dài bồi thẩm đoàn đã xác minh và tuyên bố Huntridge vô tội, một phần vì
lý do thủ tục, vì đã có những sự không theo quy tắc với cách chứng cứ
được thu thập.
Các sự kiện bao quanh Bộ Luật Ðen cho thấy rằng Cách mạng Vinh quang đã tạo ra pháp trị. Và chúng ta sẽ thấy rằng một khi chủ nghĩa đa nguyên và pháp trị đã
được xác lập, sẽ có đòi hỏi cho chủ nghĩa đa nguyên lớn hơn và sự tham
gia lớn hơn vào quá trình chính trị.
Vòng thiện nảy sinh không chỉ từ logic vốn có của chủ nghĩa đa nguyên
và pháp trị, mà cũng bởi vì các thể chế chính trị dung họp có xu hướng
ủng hộ các thể chế kinh tế dung hợp. Trong khi vòng thiện tạo ra một xu
hướng cho các thể chế dung hợp tồn tại bền bỉ, nó chẳng là không thể
tránh khỏi cũng không phải không thể bị đảo ngược. Cả ở vương quốc Anh
và ở Hoa Kỳ, các thể chế kinh tế và chính trị dung hợp đã phải chịu
nhiều thách thức. Và tất nhiên đã không phải được quyết định trước rằng
các thách thức này phải bị thất bại. Nó là nhờ không chỉ vòng thiện mà
cũng nhờ sự nhận ra con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử mà các
thể chế dung hợp Anh và Hoa Kỳ đã sống sót và trở nên mạnh hơn theo thời
gian.
SỰ TIẾN TRIỂN CHẬM CHẠP CỦA DÂN CHỦ
Sự phản ứng với Bộ Luật Ðen đã cho người dân Anh bình thường thấy rằng họ đã có nhiều quyền hơn họ đã nhận ra trước kia.
Ba thập niên đầu tiên của thế kỷ thứ mười chín đã chứng kiến sự náo
động xã hội gia tăng ở Anh, hầu hết đáp lại những bất bình đẳng kinh tế
gia tăng và những đòi hỏi từ quần chúng bị tước quyền bầu cử đòi sự đại
diện chính trị lớn hơn. Trong lúc đó, ở Paris, Cách mạng tháng Bảy 1830
đã nổ ra. Sự đồng thuận giữa các elite đã bắt đầu được hình thành rằng
sự bất mãn đang lên đến điểm sôi, và cách duy nhất để tháo ngòi nổ náo
loạn xã hội, và đẩy lui một cuộc cách mạng, đã là bằng cách thỏa mãn các
đòi hỏi của quần chúng và tiến hành cải cách quốc hội.
Nhân dân đã không chỉ muốn bỏ phiếu vì bản thân sự bỏ phiếu mà đã
muốn có một chỗ ngồi quanh chiếc bàn để có thể bảo vệ các lợi ích của
họ. Ðiều này đã được hiểu kỹ bởi phong trào Chartist, đòi quyền bầu cử
phổ quát sau 1838,
Stephens đã hiểu kỹ rằng quyền bầu cử phổ quát đã là cách lâu bền
nhất để trao quyền cho nhân dân Anh thêm nữa. Cuối cùng, Earl Grey đã
thành công cả trong bảo đảm việc thông qua Bộ Luật Cải cách Thứ Nhất và
tháo ngòi nổ của các trào lưu cách mạng. Những cải cách 1832 đã khiêm
tốn, chỉ tăng gấp đôi quyền bỏ phiếu từ 8 phần trăm lên khoảng 16 phần
trăm của số dân đàn ông (từ khoảng 2 đến 4 phần trăm của toàn bộ dân
số).
Vì sao các elite Anh đã chịu nhượng bộ các đòi hỏi? Vì sao Earl Grey
đã cảm thấy rằng cải cách một phần đã là cách duy nhất để duy trì hệ
thống? Vì sao họ đã phải chịu đựng cái xấu ít hơn trong hai cái xấu, cải
cách và cách mạng, hơn là duy trì quyền lực của họ mà không có bất cứ
cải cách nào.
Khi các cuộc đấu tranh của các năm 1790–1832 đã báo hiệu rằng sự cân
bằng này đã thay đổi, các nhà cai trị của nước Anh đã đối mặt với các
lựa chọn khả dĩ gây hoảng sợ. Họ đã có thể hoặc bỏ qua pháp trị, phá hủy
các kết cấu hợp hiến tinh vi của họ, hủy bỏ rhetoric (từ chương) của
chính họ và cai trị bằng vũ lực; hoặc họ chịu phục tùng các quy tắc của
chính họ và từ bỏ quyền lãnh đạo của họ … họ đã đi các bước tập tễnh
theo hướng thứ nhất. Nhưng cuối cùng, thay cho việc làm tan self-image
(hình tượng về, sự tự nhận thức về bản thân mình) của chính họ và từ
chối 150 năm của tính hợp hiến, họ đã đầu hàng luật pháp.
Cũng đã có sự phản hồi dương năng động giữa các thể chế kinh tế và
chính trị dung hợp làm cho một tiến trình hành động như vậy là hấp dẫn.
Các thể chế kinh tế dung hợp đã dẫn đến sự phát triển của các thị trường
dung hợp, đem lại một sự phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, sự khuyến
khích lớn hơn để có được giáo dục và các kỹ năng, và thúc đẩy những đổi
mới về công nghệ. Tất cả các lực này đã hoạt động ở Anh vào năm 1831.
Vòng thiện như thế đã mang lại cho Anh Bộ Luật Cải cách Thứ Nhất năm
1832. Nhưng đấy đã chỉ là bước đầu. Vẫn còn một con đường dài để đi đến
dân chủ thực sự, bởi vì trong năm 1832 elite đã chỉ đưa ra cái họ nghĩ
là họ phải và không hơn. Vấn đề cải cách quốc hội đã được tiếp tục bởi
phong trào Chartist, mà Hiến chương của Nhân dân năm 1838 đã bao gồm các
điều
Một lá phiếu cho mỗi người đàn ông có tuổi từ hai mươi mốt, có đầu óc lành mạnh và không đang chịu hình phạt vì phạm tội.
Bằng “phiếu bầu,” họ đã hiểu là bỏ phiếu kín bí mật và chấm dứt bỏ
phiếu ngỏ, mà đã tạo thuận lợi cho việc mua chuộc phiếu bầu và sự ép
buộc những người bỏ phiếu.
Thực ra, thí dụ Anh, một minh họa về vòng thiện của các thể chế dung
hợp, cung cấp một thí dụ về một “vòng thiện từ từ.” Những sự thay đổi
chính trị một cách không thể nhầm lẫn đã hướng tới các thể chế chính trị
dung hợp hơn và đã là kết quả của những đòi hỏi từ nhân dân được trao
quyền. Nhưng chúng đã cũng từ từ từng bước một. Mỗi thập niên một bước
nữa, đôi khi nhỏ hơn, đôi khi lớn hơn, đã được tiến hành hướng tới dân
chủ. Ðã có xung đột về mỗi bước, và kết quả của mỗi bước đã tùy thuộc
ngẫu nhiên. Nhưng vòng thiện đã tạo ra các lực mà đã làm giảm tiền đánh
cược dính líu đến việc bám lấy quyền lực. Nó cũng đã thúc đẩy pháp trị,
làm cho khó hơn để sử dụng vũ lực chống lại những người đòi hỏi cái mà
bản thân các elite đã đòi hỏi từ các vua Stuart.
Sự thay đổi từ từ cũng đã chặn việc liều mạng lao vào các vùng lãnh
thổ chưa được khám phá. Một sự lật đổ dữ dội hệ thống có nghĩa là cái gì
đó hoàn toàn mới phải được xây dựng để thế chỗ cho cái bị thủ tiêu. Ðấy
đã là trường hợp của Cách mạng Pháp, khi thử nghiệm đầu tiên với dân
chủ đã dẫn đến Khủng bố và sau đó quay lại nền quân chủ hai lần trước
khi cuối cùng dẫn đến nền Cộng hòa Pháp Thứ Ba vào năm 1870. Nó đã là
trường hợp của Cách mạng Nga, nơi các mong mỏi của nhiều người cho một
hệ thống công bằng hơn hệ thống của Ðế chế Nga, đã dẫn đến một chế độ
độc tài độc đảng mà đã hung bạo, khát máu, và đồi bại hơn chế độ nó đã
thay thế rất nhiều. Cải cách từ từ đã là khó trong các xã hội này chính
xác bởi vì chúng thiếu chủ nghĩa đa nguyên và đã hết sức chiếm đoạt.
Chính chủ nghĩa đa nguyên nổi lên từ Cách mạng Vinh quang, và pháp trị
mà nó đưa vào, đã là cái làm cho sự thay đổi từ từ là khả thi, và đáng
mong muốn, ở Anh.
Nhà bình luận Anh bảo thủ Edmund Burke, người kiên định chống Cách
mạng Pháp, đã viết trong năm 1790, “Với sự thận trọng vô hạn rằng bất cứ
ai nên liều mạng phá đổ một tòa lâu đài, mà đã đáp ứng cho các mục đích
chung của xã hội theo bất cứ mức độ có thể chịu được nào từ bao đời
nay, hay dựng lại nó lên mà không có các mô hình và các hình mẫu về tính
hữu dụng đã được chứng minh trước mắt mình.” Burke đã sai về bức tranh
lớn. Cách mạng Pháp đã thay thế tòa lâu đài thối nát và đã mở đường cho
các thể chế bao gồm không chỉ ở Pháp, mà khắp phần lớn Tây Âu. Nhưng sự
thận trọng của Burke đã không phải hoàn toàn không chính xác. Quá trình
từ từ của cải cách chính trị Anh, mà đã bắt đầu trong năm 1688 và đã lấy
được nhịp ba thập niên sau cái chết của Burke, đã có hiệu quả hơn bởi
vì bản chất từ từ của nó đã làm cho nó hùng mạnh hơn, khó hơn để kháng
cự, và cuối cùng lâu bền hơn.
LÀM VỠ TAN CÁC TRUST
Vào giữa thế kỷ thứ mười chín, tất cả các đàn ông da trắng đã có thể
bầu cử ở Hoa Kỳ, mặc dù các phụ nữ và những người da đen đã không. Sự
kết thúc của Nội Chiến Hoa Kỳ đã khởi xướng một đợt tăng tốc tăng trưởng
kinh tế ở miền Bắc. Một vài người đã kiếm được số tiền lớn kếch xù. Họ
và các công ty của họ đã trở nên ngày càng vô lương tâm. Họ đã được gọi
là các Robber Baron (Trùm Kẻ Cướp). Một trong những kẻ khét tiếng nhất
của những người này đã là Cornelius Vanderbilt, người đã nhận xét một
cách nổi tiếng, “Tôi quan tâm gì đến Luật pháp? Tôi không có quyền lực
ư?”
Một người khác đã là John D. Rockefeller, người đã khởi xướng Công ty
Standard Oil năm 1870. Các tranh biếm họa đương thời vẽ Standard Oil
như một con bạch tuộc quấn các vòi không chỉ quanh công nghiệp dầu mà cả
Capitol Hill, tòa nhà Quốc hội, nữa.
Hầu như cũng khét tiếng thế đã là John Pierpont Morgan, người sáng
lập tổ hợp độc quyền (conglomerate) ngân hàng. Cùng với Andrew Carnegie,
Morgan đã thành lập Công ty Thép Hoa Kỳ (U.S. Steel Company) năm 1901.
Trong các năm 1890, các trust lớn đã bắt đầu nổi lên gần như ở mọi khu
vực của nền kinh tế, và nhiều trong số chúng kiểm soát hơn 70 phần trăm
thị trường trong khu vực của chúng. Các trust này gồm tên của nhiều gia
đình, như Du Pont, Eastman Kodak, và International Harvester. Về mặt
lịch sử, Hoa Kỳ, chí ít miền bắc và trung tây Hoa Kỳ, đã có các thị
trường tương đối cạnh tranh và đã quân bình hơn các phần khác của đất
nước, đặc biệt là Miền Nam. Nhưng trong thời kỳ này, sự cạnh tranh
nhường đường cho độc quyền, và sự bất bình đẳng của cải tăng lên nhanh
chóng.
Hệ thống chính trị đa nguyên của Hoa Kỳ đã trao quyền cho một mảng
rộng của xã hội, đã có thể đứng lên chống lại những sự xâm phạm như vậy.
Các nạn nhân của các tập đoàn Trùm Ăn Cướp, đã bắt đầu tổ chức để chống
lại chúng. Họ đã lập ra phong trào Dân túy và rồi sau đó phong trào
Tiến bộ.
Các phong trào chính trị chầm chậm đã bắt đầu có một tác động lên
thái độ chính trị và rồi lên lập pháp, đặc biệt liên quan đến vai trò
của nhà nước trong điều tiết độc quyền. Một lực lượng chính trị chủ chốt
đứng đằng sau quy chế chống trust và bước đi để áp đặt quy chế liên
bang về công nghiệp đã lại là phiếu bầu của nông dân. Các nỗ lực ban đầu
bởi các bang riêng lẻ trong các năm 1870 để điều tiết đường sắt đã đến
từ các tổ chức nông dân.
Sau dân túy đến những người Tiến bộ, ban đầu đã quện lại xung quanh
nhân vật Teddy Roosevelt, người đã là phó tổng thống của William
McKinley và đã đảm đương chức tổng thống từ năm 1901. Roosevelt đã là
một thống đốc không nhượng bộ của New York và đã làm việc siêng năng để
loại bỏ tham nhũng chính trị và “guồng máy chính trị.” Ông đã cho rằng
sự thịnh vượng của Hoa Kỳ dựa trên nền kinh tế thị trường và tài khéo
léo của các nhà kinh doanh, nhưng đồng thời có những cái xấu thực và
trầm trọng, và một sự tin chắc rộng rãi trong đầu của nhân dân Mỹ rằng
các công ty lớn được biết đến như các trust theo một số đặc tính và xu
hướng của chúng là có hại cho phúc lợi chung.
Roosevelt đã kiến nghị Quốc hội thiết lập một cơ quan liên bang với
quyền lực để điều tra các vụ của các công ty lớn và rằng, nếu cần thiết,
một sự tu chính Hiến pháp có thể được sử dụng để tạo ra một cơ quan như
vậy. Thời cực thịnh của những cải cách Tiến bộ đến với việc bầu Woodrow
Wilson năm 1912. Wilson đã lưu ý trong cuốn sách năm 1913 của ông,
cuốn The New Freedom (Quyền tự do mới), “Nếu độc quyền tồn tại
dai dẳng, độc quyền sẽ luôn luôn ở cương vị chỉ huy chính phủ. Tôi không
kỳ vọng để thấy độc quyền tự kiềm chế. Nếu có những người ở đất nước
này đủ lớn để sở hữu chính phủ Hoa Kỳ, họ sẽ sở hữu nó”. Wilson đã làm
việc để thông qua Ðạo luật Clayton Chống Trust năm 1914.
Kinh nghiệm Hoa Kỳ trong nửa đầu của thế kỷ 20 cũng nhấn mạnh vai trò
quan trọng của báo chí tự do trong trao quyền cho các mảng rộng của xã
hội và như thế trong vòng thiện. Báo chí muckra kẻ đã đóng một vai trò
chủ yếu trong xui khiến các chính trị gia hành động chống lại các trust.
Các Trùm Kẻ Cướp đã căm thù các muckraker, nhưng các thể chế chính trị
của Hoa Kỳ đã làm cho là không thể đối với họ để tiệt trừ và bịt miệng
những người hay bới móc. Các thể chế chính trị dung hợp cho phép một nền
báo chí tự do phát đạt, và một nền báo chí tự do, đến lượt, lại làm cho
có nhiều khả năng hơn rằng các đe dọa chống lại các thể chế kinh tế và
chính trị dung hợp sẽ được biết đến một cách rộng rãi và bị kháng cự.
Ngược lại, quyền tự do [báo chí] như vậy là không thể dưới các thể chế
chính trị chiếm đoạt, dưới chính thể chuyên chế, hay dưới chế độ độc
tài, mà giúp các chế độ chiếm đoạt để ngăn ngừa trước hết sự hình thành
của phe đối lập nghiêm túc. Thông tin mà báo chí tự do cung cấp đã rõ
ràng là quyết định trong nửa đầu của thế kỷ thứ hai mươi ở Hoa Kỳ. Không
có thông tin này, công chúng Hoa Kỳ đã không biết mức độ thật của quyền
lực và sự lạm dụng của các Trùm Kẻ Cướp và đã không thể được huy động
để chống lại các trust của họ.
CHỌN NGƯỜI VÀO TÒA ÁN
Franklin D. Roosevelt, em con chú của Teddy Roosevelt, đã được bầu
làm tổng thống năm 1932 giữa cuộc Ðại Suy thoái. Vào thời điểm lễ nhậm
chức của ông đầu năm 1933, một phần tư lực lượng lao động đã thất nhiệp,
Các chính sách mà Roosevelt kiến nghị để chống lại tình trạng này đã
được biết đến chung như New Deal (Chính sách Kinh tế Mới). Roosevelt đã
có một chiến thắng vững chắc, với 57 phần trăm phiếu bầu phổ thông, Ðảng
Dân chủ đã có đa số ở cả Hạ viện và Thượng viện, đủ để thông qua luật
pháp New Deal. Tuy vậy, một số luật đã nêu ra các vấn đề hiến pháp và đã
kết thúc ở Tòa án Tối cao, nơi sự ủy thác cử tri của Roosevelt đã rất
ít có tác dụng.
Trước khi quyết định của Tòa được ghi nhận, Roosevelt đã bước một
bước tiếp theo của chương trình nghị sự của ông và đã ký Ðạo luật Trợ
cấp Xã hội (Social Security Act), Ông cũng đã ký Ðạo luật Quan hệ Lao
động Quốc gia (National Labor Relations Act), đã củng cố thêm các quyền
của những người lao động để tổ chức các nghiệp đoàn, Các biện pháp này
đã đối mặt với các thách thức ở Tòa án Tối cao. Khi những thứ này đang
đi qua ngành tư pháp, Roosevelt đã được bầu lại trong năm 1936 với một
sự ủy thác mạnh mẽ, nhận được 61 phần trăm phiếu bầu phổ thông.
Với sự yêu mến của nhân dân lên cao kỷ lục, Roosevelt đã không có ý
định để cho Tòa án Tối cao làm trật bánh xe nhiều hơn trong chương trình
nghị sự chính sách của ông.
Roosevelt cho rằng ông đã có sự ủy thác cử tri để thay đổi tình trạng
này và rằng “sau khi cân nhắc về cải cách gì để kiến nghị, phương pháp
duy nhất mà hợp hiến một cách rõ ràng là tiếp máu mới vào tất cả các tòa
án.” Ông cũng đã lập luận rằng các thẩm phán Tòa án Tối cao đã phải làm
việc quá sức. Rồi ông kiến nghị rằng tất cả các thẩm phán phải đối mặt
với sự nghỉ hưu bắt buộc ở tuổi bảy mươi và rằng ông phải được phép chỉ
định đến sáu thẩm phán mới. Kế hoạch này, mà Roosevelt đã đệ trình như
Dự luật Tổ chức lại ngành Tư pháp, sẽ là đủ để loại bỏ các thẩm phán mà
đã được bổ nhiệm trước đây bởi các chính quyền bảo thủ hơn và những
người đã phản đối New Deal tích cực nhất.
Cho dù quyền lực của Roosevelt vẫn bị ràng buộc, đã có những thỏa
hiệp, và các Ðạo luật Trợ cấp Xã hội và Quan hệ Lao động Quốc gia cả hai
đã được Tòa tuyên là hợp hiến.
Với chủ nghĩa đa nguyên, không nhóm nào muốn hay dám lật đổ quyền lực
của nhóm khác, vì sợ rằng quyền lực riêng của chính nó sau đó sẽ bị
thách thức. Ðồng thời, sự phân bổ rộng quyền lực làm cho một sự lật đổ
như vậy là khó. Một Tòa án Tối cao có thể có quyền lực nếu nó nhận được
sự ủng hộ đáng kể từ các mảng rộng của xã hội sẵn sàng đẩy lui các mưu
toan để làm mất hiệu lực của tính độc lập của Tòa án. Ðiều đó đã đúng ở
Hoa Kỳ. Các nhà lập pháp ở đó đã vui lòng để làm xói mòn Tòa án cho dù
họ đã thấy trước rằng việc này đã có thể gây nguy hiểm cho vị trí của
chính họ. Một lý do là, với các thể chế chiếm đoạt có nhiều để kiếm được
từ việc lật đổ Tòa án Tối cao, và các lợi ích tiềm năng đó là đáng giá
các rủi ro.
PHẢN HỒI DƯƠNG VÀ CÁC VÒNG THIỆN
Các thể chế kinh tế và chính trị dung hợp không tự nổi lên. Chúng
thường là kết quả của xung đột đáng kể giữa các elite cưỡng lại sự tăng
trưởng kinh tế và thay đổi chính trị và những người muốn hạn chế quyền
lực kinh tế và chính trị của các elite hiện tồn. Các thể chế dung hợp
nổi lên trong các bước ngoặt, như trong Cách mạng Vinh quang ở Anh hay
sự thành lập thuộc địa Jamestown ở Bắc Mỹ, khi một chuỗi nhân tố làm yếu
sự nắm giữ quyền lực của các elite, làm cho các đối thủ của họ mạnh
hơn, và tạo ra những khuyến khích cho việc hình thành của một xã hội đa
nguyên.
Vòng thiện hoạt động thông qua nhiều cơ chế. Ðầu tiên, logic của các
thể chế chính trị đa nguyên làm cho việc chiếm đoạt quyền lực bởi một kẻ
độc tài, một phe phái bên trong chính phủ, hay thậm chí một Tổng thống
có thiện chí là khó hơn nhiều. Chủ nghĩa đa nguyên cũng là nơi lưu giữ
linh thiêng quan niệm về pháp trị, Nhưng pháp trị, đến lượt, lại ngụ ý
rằng các luật không thể đơn giản được sử dụng bởi một nhóm để xâm phạm
các quyền của người khác. Thứ hai, các thể chế chính trị dung hợp ủng hộ
và được ủng hộ bởi các thể chế kinh tế dung hợp. Ðiều này tạo ra một cơ
chế khác của vòng thiện.
Cuối cùng, các thể chế chính trị dung hợp cho phép một nền báo chí tự
do đơm hoa kết trái, và một nền báo chí tự do thường cung cấp thông tin
về và động viên sự phản đối các mối đe dọa chống lại các thể chế dung
hợp, khi sự thống trị kinh tế ngày càng gia tăng của các Trùm Kẻ Cướp đã
đe dọa bản chất của các thể chế kinh tế ở Hoa Kỳ.
Mặc dù kết quả của các xung đột luôn luôn-hiện diện tiếp tục là tùy
thuộc ngẫu nhiên, thông qua các cơ chế này vòng thiện tạo ra một xu
hướng hùng mạnh cho các thể chế dung hợp để tồn tại lâu dài, để cưỡng
lại các thách thức, và để mở rộng như chúng đã làm ở cả Anh và Hoa Kỳ.
Ðáng tiếc, như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, các thể chế
chiếm doạt tạo ra các lực mạnh ngang thế theo hướng sự tồn tại dai dẳng
của chúng – quá trình của vòng luẩn quẩn.
(Còn tiếp)