Giới thiệu tóm tắt “Tại sao các quốc gia thất bại” (Đoạn 5) (Nguyễn Đình Cống)
Chắc chắn đã có các thị trường ở Trung Quốc thời Minh và Thanh, và
chính phủ đã đánh thuế nền kinh tế nội địa khá nhẹ. Tuy vậy, nó đã làm
ít để hỗ trợ sự đổi mới sáng tạo, và nó đã đánh đổi sự phát triển buôn
bán hay sự thịnh vượng công nghiệp lấy sự ổn định chính trị. Hệ quả của
tất cả sự kiểm soát chuyên chế này đối với nền kinh tế đã là có thể tiên
đoán được: nền kinh tế Trung Quốc đã trì trệ suốt thế kỷ thứ mười chín
và đầu thế kỷ thứ hai mươi, trong khi các nền kinh tế khác đang công
nghiệp hóa. Vào lúc Mao dựng lên chế độ cộng sản của ông năm 1949, Trung
Quốc đã trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới.
Chương 8: KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI
KHÔNG CHO PHÉP IN
Trong năm 1445 tại thành phố Ðức Mainz, Johannes Gutenberg đã tiết lộ
một đổi mới với các hệ quả sâu sắc cho lịch sử kinh tế tiếp sau: một
máy in dựa trên con chữ động (movable type). Cho đến lúc đó, các cuốn
sách hoặc được sao chép bằng tay bởi những người chép bản thảo, hay được
in mộc bản.
Ở Tây Âu năm 1460 đã có máy ở Strasbourg, Pháp. Vào cuối các năm 1460
công nghệ đã lan ra khắp Italy. Vào năm 1476 đã lắp đặt một máy in ở
London, Trong cùng thời kỳ, ngành in đã lan khắp các Nước Luxemburg,
Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, và thậm chí sang Ðông Âu, ở Budapest năm 1473
và ở Cracow một năm sau.
Không phải tất cả mọi người đều thấy việc in như một đổi mới đáng
mong muốn. Ngay từ 1485, Sultan Ottoman Bayezid II đã ban một chỉ dụ
rằng những người Muslim bị tuyệt đối cấm in bằng tiếng Arab. Chỉ đến
1727 thì máy in đầu tiên mới được phép trên đất Ottoman. Nhưng cho đến
1797 họ cũng chỉ in đười vài chục cuốn sách. Ở Ai Cập máy in được người
Pháp mang đến vào 1798.
Căn cứ vào các thể chế Ottoman hết sức chuyên chế và chiếm đoạt, sự
thù nghịch của sultan đối với máy in là dễ hiểu. Giải pháp của họ đã là
cấm in.
Ðế chế Ottoman vẫn là chuyên chế cho đến khi nó sụp đổ vào cuối Chiến
tranh Thế giới lần thứ Nhất. Lý do của việc những thay đổi kinh tế đã
xảy ra tại Anh đã không xảy ra trong Ðế chế Ottoman, là mối quan hệ tự
nhiên giữa các thể chế chính trị chuyên chế chiếm đoạt và các thể chế
kinh tế chiếm đoạt.
Chính thể chuyên chế và sự thiếu tập trung chính trị hay sự tập trung
chính trị yếu là hai rào cản đối với sự mở rộng công nghiệp. Sự kháng
cự đối với sự tập trung hóa chính trị được thúc đẩy bởi các lý do giống
như sự kháng cự đối với các thể chế chính trịdung hợp: sợ mất quyền lực
chính trị.
Nhưng trong nhiều trường hợp khác, đúng là điều ngược lại xảy ra, và
quá trình tập trung hóa chính trị cũng mở ra một thời đại của chính thể
chuyên chế lớn hơn. Ðiều này được minh họa bởi các nguồn gốc của chính
thể chuyên chế Nga, đã được Peter Ðại Ðế tạo dựng giữa 1682 và năm ông
mất 1725. Mặc dù dự án tập trung hóa chính trị của Peter Ðại Ðế đã thành
công và đã thắng phe đối lập, các loại lực lượng đã phản đối sự tập
trung hóa nhà nước, như Streltsy, những người thấy quyền lực của họ bị
thách thức, đã chiến thắng ở nhiều phần của thế giới, và sự thiếu tập
trung hóa nhà nước do nó gây ra đã có nghĩa là sự tồn tại dai dẳng của
một loại khác của các thể chế chiếm đoạt.
Trong chương này, chúng ta sẽ thấy trong bước ngoặt do Cách mạng Công
nghiệp tạo ra, nhiều quốc gia đã lỡ chuyến tàu thế nào và đã không tận
dụng được sự mở rộng công nghiệp ra sao. Hoặc họ đã có các thể chế chính
trị chuyên chế và các thể chế kinh tế chiếm đoạt, như ở Ðế chế Ottoman,
hay họ đã thiếu sự tập trung hóa chính trị, như ở Somalia.
Chính thể chuyên chế đã sụp đổ ở nước Anh trong thế kỷ thứ mười bảy
nhưng đã trở nên mạnh hơn ở Tây Ban Nha. Nỗ lực để xây dựng và củng cố
chính thể chuyên chế ở Tây Ban Nha được sự giúp đỡ khổng lồ bởi việc
phát hiện ra các kim loại quý ở châu Mỹ.
Các hệ quả của các thể chế chính trị và kinh tế chiếm đoạt ở Tây Ban
Nha đã có thể tiên đoán được. Trong thế kỷ thứ mười bảy, trong khi nước
Anh đang di chuyển theo hướng tăng trưởng thương mại và sau đó công
nghiệp hóa nhanh chóng, thì Tây Ban Nha sa theo hướng suy thoái kinh tế
lan rộng. Thu nhập Tây Ban Nha đã giảm sút, trong khi nước Anh dần trở
nên giàu có.
Sự tồn tại dai dẳng của chính thể chuyên chế ở Tây Ban Nha, trong khi
nó bị trốc tận rễ ở nước Anh, là một thí dụ nữa về những khác biệt nhỏ
là có ý nghĩa trong các bước ngoặt.
Các thể chế kinh tế tương đối dung hợp đã nảy sinh ở nước Anh đã tạo
ra tính năng động kinh tế chưa từng thấy, lên đỉnh điểm trong Cách mạng
Công nghiệp, trong khi công nghiệp hóa đã không có cơ hội nào ở Tây Ban
Nha. Vào lúc công nghệ công nghiệp đã lan ra nhiều phần của thế giới,
nền kinh tế Tây Ban Nha đã suy sụp nhiều đến mức thậm chí đã không có
nhu cầu đối với Quốc vương hay các elite chủ sở hữu đất ở Tây Ban Nha để
ngăn chặn công nghiệp hóa.
SỢ CÔNG NGHIỆP
Không có những thay đổi về các thể chế chính trị và quyền lực chính
trị tương tự như những thay đổi đã nổi lên ở Anh sau 1688, thì đã có ít
cơ hội cho các nước chuyên chế để hưởng lợi từ những đổi mới và những
công nghệ mới của Cách mạng Công nghiệp. Ở Tây Ban Nha, chẳng hạn, sự
thiếu các quyền tài sản an toàn và sự sa sút kinh tế phổ biến đã có
nghĩa rằng người dân đơn giản đã không có khuyến khích để tiến hành các
khoản đầu tư và những sự hy sinh cần thiết. Ở Nga và Áo-Hungary, đã
không đơn giản là sự sao lãng và sự quản lý tồi của các elite và sự
trượt kinh tế quỷ quyệt vào dưới các thể chế chiếm đoạt là những cái đã
cản trở công nghiệp hóa; thay vào đó, các nhà cai trị đã tích cực ngăn
chặn bất cứ nỗ lực nào để đưa các công nghệ này và các khoản đầu tư cơ
bản vào cơ sở hạ tầng như đường sắt mà đã có thể hoạt động như các máng
dẫn của chúng.
Vào thời gian của Cách mạng Công nghiệp, trong thế kỷ thứ mười tám và
đầu thế kỷ thứ mười chín, bản đồ chính trị của châu Âu đã rất khác với
bản đồ chính trị hiện nay.
Các nhà buôn ở các lãnh thổ Habsburg đã ít quan trọng hơn nhiều so
với ở Anh, và chế độ nông nô đã chiếm ưu thế tại các vùng đất ở Ðông Âu.
Francis đã giải tán Hội đồng Nhà nước, tạo ra một nhà nước cảnh sát
và đã kiểm duyệt một cách tàn nhẫn bất cứ thứ gì mà có thể được coi như
cấp tiến ôn hòa.
Sự kiềm chế các thị trường và sự tạo ra các thể chế kinh tế chiếm
đoạt tất nhiên là đặc trưng hoàn toàn của chính thể chuyên chế, nhưng
Francis đã đi xa hơn. Trong các vùng đất Habsburg, Francis đã không
khuyến khích các công dân của ông chấp nhận làm theo công nghệ tốt hơn;
ngược lại, ông thực sự chống lại nó,
Sự chống đối đổi mới đã được thể hiện theo hai cách. Thứ nhất,
Francis I đã chống sự phát triển công nghiệp. Thứ hai, ông đã chống lại
việc xây dựng đường sắt, một trong những công nghệ mới then chốt mà đã
đến cùng Cách mạng Công nghiệp.
Sự phản đối công nghiệp và máy hơi nước đã xuất phát từ nỗi lo của
Francis về sự phá hủy có tính sáng tạo đi cùng với sự phát triển của một
nền kinh tế hiện đại.
Áo-Hungary đã không đơn độc trong nỗi sợ công nghiệp. Xa hơn ở phía
đông, Nga đã có một tập hợp chuyên chế ngang thế của các thể chế chính
trị, được rèn bởi Peter Ðại Ðế. Sau Peter, vua Nicholas đã sợ những thay
đổi xã hội mà việc tạo ra một nền kinh tế hiện đại sẽ mang lại. Ông sợ
rằng sự phá hủy có tính sáng tạo được tháo ra bởi một nền kinh tế công
nghiệp hiện đại sẽ làm xói mòn hiện trạng chính trị ở Nga.
Trong năm 1848 châu Âu bị rung chuyển bởi một loạt các cuộc cách mạng
nổ ra. Ðáp lại, Zakrevskii, thống đốc quân sự của Moscow, đã viết cho
Nicholas: “Ðể duy trì sự bình yên và thịnh vượng, mà hiện thời chỉ Nga
được hưởng, chính phủ không được cho phép sự tụ tập của những người vô
gia cư và những kẻ phóng đãng, những người sẽ dễ dàng tham gia mọi phong
trào, phá hoại sự bình yên xã hội và sự yên bình riêng.”
Sự chống đối đường sắt đi cùng với sự chống đối công nghiệp, chỉ đến
1851 mới có một tuyến được xây dựng nối Moscow và Saint Peterburg. Chính
sách chống đường sắt đã chỉ đảo ngược sau khi Nga bị các lực lượng Anh,
Pháp, và Ottoman đánh bại một cách dứt khoát trong Chiến tranh Crime,
1853-1856, khi sự lạc hậu của mạng lưới giao thông của nó đã được hiểu
là cái gây khó khăn trở ngại cho an ninh của Nga. Cũng đã có ít sự phát
triển đường sắt ở Áo-Hungary, bên ngoài Áo và phần phía Tây của đế chế,
mặc dù các cuộc Cách mạng 1848 đã mang lại những thay đổi cho các lãnh
thổ này, đặc biệt là sự xóa bỏ chế độ nông nô.
KHÔNG TÀU BÈ NÀO ÐƯỢC PHÉP
Chính thể chuyên chế đã ngự trị không chỉ ở phần lớn châu Âu mà cả ở
châu Á nữa. Các triều đại Minh và Thanh ở Trung Quốc và chính thể chuyên
chế của Ðế chế Ottoman minh họa điều này. Dưới triều Tống, giữa 960 và
1279, Trung Quốc đã dẫn đầu thế giới về nhiều đổi mới công nghệ. Những
người Trung Quốc đã sáng chế ra đồng hồ, la bàn, thuốc súng, giấy và
tiền giấy, đồ sứ, và lò nung thổi để chế tạo gang trước khi châu Âu đã
sáng chế ra. Họ đã phát triển một cách độc lập guồng xe sợi và sức nước
ít nhiều cùng thời gian mà những công nghệ này nổi lên ở đầu bên kia của
đại lục Á-Âu. Kết quả là, trong năm 1500 mức sống ở Trung Quốc ít nhất
cũng cao như ở châu Âu. Trong nhiều thế kỷ Trung Quốc cũng đã có một nhà
nước tập trung với một bộ máy công vụ được tuyển theo công trạng.
Thế nhưng Trung Quốc đã là chuyên chế. Ðã không có sự đại diện chính
trị cho các nhóm khác với nền quân chủ, đã chẳng có gì giống với Quốc
hội. Như hầu hết các nhà cai trị đứng đầu các thể chếchiếm đoạt, các
hoàng đế chuyên chế của Trung Quốc đã chống sự thay đổi, tìm kiếm sự ổn
định, và về bản chất sợ sự phá hủy có tính sáng tạo.
Trong năm 1402, Hoàng đế Vĩnh Lạc lên ngôi và đã khởi xướng một giai
đoạn nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc bằng cách khởi động ngoại
thương do nhà nước tài trợ trên quy mô lớn. Vĩnh Lạc đã tài trợ Ðô đốc
Trịnh Hòa để tiến hành sáu đợt công cán khổng lồ đến Ðông Nam và Nam Á,
Arabia, và châu Phi.
Hơn năm mươi năm đã trôi qua kể từ khi thành lập triều đại nhà Thanh, và đế chế đã nghèo dần từng ngày.
Trong năm 1661 hoàng đế Khang Hy đã ra lệnh rằng tất cả người dân
sống ở bờ biển từ Việt Nam đến Chiết Giang phải chuyển vào bên trong đất
liền mười bảy dặm. Bờ biển được tuần tra bởi binh lính. Sự cấm này đã
được áp đặt định kỳ trong thế kỷ thứ mười tám, trên thực tế làm còi cọc
sự nổi lên của thương mại quốc tế của Trung Quốc.
Chắc chắn đã có các thị trường ở Trung Quốc thời Minh và Thanh, và
chính phủ đã đánh thuế nền kinh tế nội địa khá nhẹ. Tuy vậy, nó đã làm
ít để hỗ trợ sự đổi mới sáng tạo, và nó đã đánh đổi sự phát triển buôn
bán hay sự thịnh vượng công nghiệp lấy sự ổn định chính trị. Hệ quả của
tất cả sự kiểm soát chuyên chế này đối với nền kinh tế đã là có thể tiên
đoán được: nền kinh tế Trung Quốc đã trì trệ suốt thế kỷ thứ mười chín
và đầu thế kỷ thứ hai mươi, trong khi các nền kinh tế khác đang công
nghiệp hóa. Vào lúc Mao dựng lên chế độ cộng sản của ông năm 1949, Trung
Quốc đã trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới.
CHÍNH THỂ CHUYÊN CHẾ CỦA PRESTER JOHN
Chính thể chuyên chế với tư cách một tập hợp của các thể chế chính
trị và các hệ quả kinh tế nảy sinh từ nó đã không hạn chế ở châu Âu và
châu Á. Nó đã hiện diện ở châu Phi, chẳng hạn, với Vương quốc Congo, như
chúng ta đã thấy ở chương 2. Một thí dụ thậm chí còn kéo dài hơn về
chính thể chuyên chế Phi châu là Ethiopia, hay Abyssinia, mà gốc rễ của
nó chúng ta đã bắt gặp ở chương 6, Hệ quả của chính thể chuyên chế là sự
hết sức không an toàn của các quyền tài sản bị dẫn dắt bởi chiến lược
chính trị của hoàng đế.
Ethiopia đã không chịu cùng bước ngoặt đã giúp làm xói mòn chế độ
chuyên chế ở nước Anh. Nó đã bị cô lập khỏi nhiều quá trình đã định hình
thế giới hiện đại.
Khi sự thuộc địa hóa châu Phi của những người Âu châu bắt đầu trong
thế kỷ thứ mười chín, Ethiopia đã là một vương quốc độc lập dưới thời
Ras (Công tước) Kassa, người đã được phong làm Hoàng đế Tewodros II
trong năm 1855.. Các cuộc thương thuyết của ông với các cường quốc Âu
châu đã khó khăn, và trong lúc điên tiết ông đã tống giam lãnh sự Anh.
Trong năm 1868 những người Anh đã cử một lực lượng viễn chinh, đã cướp
phá thủ đô của ông. Tewodros đã tự vẫn.
Hoàng đế cuối cùng của Ethiopia, Haile Selassie lên ngôi năm 1930.
Haile Selassie đã cai trị cho đến khi ông bị lật đổ bởi một cuộc đảo
chính năm 1974 bởi Derg, “Ủy ban”, một nhóm Marxist là các sĩ quan quân
đội, những người sau đó đã tiếp tục bần cùng hóa và tàn phá đất nước.
Ngày nay Ethiopia là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Một sự
so sánh giữa Anh và Ethiopia bao quát sự bất bình đẳng thế giới. Lý do
Ethiopia ở nơi nó ở ngày nay là, không giống ở nước Anh, ở Ethiopia
chính thể chuyên chế đã tồn tại dai dẳng cho đến gần đây. Với chính thể
chuyên chế, các thể chế kinh tế chiếm đoạt và sự nghèo khó đến với quần
chúng nhân dân Ethiopia, mặc dù tất nhiên các hoàng đế và giới quý tộc
đã hưởng lợi khổng lồ. Nhưng hệ lụy lâu dài nhất của chính thể chuyên
chế đã là, xã hội Ethiopia đã không tận dụng được những cơ hội công
nghiệp hóa trong thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi, và đấy là
nguyên nhân chính của sự nghèo xác nghèo xơ của các công dân của nó hôm
nay.
NHỮNG ÐỨA CON CỦA SOMAALE
Somalia, nằm ở Sừng châu Phi, minh họa các tác động tàn phá ghê gớm
của việc thiếu sự tập trung hóa chính trị. Somalia đã bị cai trị về mặt
lịch sử bởi những người được tổ chức thành sáu họ thị tộc. Bốn họ thị
tộc lớn nhất là, Dir, Darod, Isaq, và Hawiye.
Những người Somali đồng nhất mình trước tiên với họ thị tộc của mình,
nhưng các họ thị tộc này là rất lớn và chứa nhiều nhóm con. Các thị tộc
Somali về mặt lịch sử đã bị khóa chặt vào xung đột hầu như liên miên vì
các nguồn lực khan hiếm. Mặc dù các thị tộc có các lãnh đạo gọi là các
sultan, và cả những người già, những người này không có quyền lực thực
sự. Quyền lực chính trị được phân tán rất rộng, với mỗi người lớn Somali
đều có khả năng có tiếng nói của mình về các quyết định mà có thể tác
động đến thị tộc hay nhóm. Với sự đến của cai trị thuộc địa, các quyết
định này bắt đầu được viết thành văn. Thí dụ, dòng dõi Hassan Ugaas đã
tạo thành một nhóm của khoảng một ngàn năm trăm đàn ông và là một tiểu
thị tộc của họ thị tộc Dir ở Somaliland thuộc Anh.
Quyền lực chính trị được phân tán rộng trong xã hội Somali, hầu như
một cách đa nguyên. Nhưng không có quyền lực của một nhà nước tập trung
để thực thi trật tự, nói chi đến các quyền tài sản, thì việc này dẫn
không đến các thể chếdung hợp. Chẳng ai tôn trọng quyền hạn của người
khác, và chẳng ai, kể cả nhà nước thuộc địa Anh khi cuối cùng nó đã đến,
đã có khả năng áp đặt trật tự. Sự thiếu tập trung hóa chính trị đã làm
cho là không thể đối với người Somali để hưởng lợi từ Cách mạng Công
nghiệp. Trong một bầu không khí như vậy là không thể tưởng tượng nổi để
đầu tư vào hay chấp nhận các công nghệ mới bắt nguồn từ Anh, hay quả
thực để tạo ra loại tổ chức cần thiết để làm vậy.
Những người Somali cũng đã có chữ viết, nhưng không giống những người
Ethiopia, họ đã không sử dụng nó. Ðầu tiên tình hình này có vẻ rất khó
hiểu. Tường thuật truyền thống về nguồn gốc của chữ viết ở Mesopotamia
là, nó đã được phát triển bởi nhà nước để ghi thông tin, kiểm soát người
dân, và thu thuế. Chẳng phải nhà nước đã không quan tâm đến việc này?
Một phần của câu chuyện là, các công dân đã chống lại việc sử dụng
chữ viết bởi vì họ đã sợ rằng nó được dùng để kiểm soát các nguồn lực,
như đất đai có giá trị, bằng cách cho phép nhà nước đòi quyền sở hữu. Họ
cũng đã sợ rằng nó sẽ dẫn đến sự đánh thuế có hệ thống hơn. Các elite
khác nhau cũng chống đối sự tập trung hóa chính trị, chẳng hạn, thích
giao tiếp bằng lời hơn bằng văn bản với các công dân, bởi vì việc này đã
cho phép họ tự do định đoạt một cách tối đa.
Trường hợp Somali cho thấy các hệ quả của sự thiếu tập trung hóa chính trị đối với tăng trưởng kinh tế.
Như một hệ quả của sự thiếu tập trung hóa chính trị và sự thiếu an
toàn cơ bản của các quyền tài sản bị kéo theo, xã hội Somali đã chẳng
bao giờ tạo ra các khuyến khích để đầu tư vào các công nghệ nâng cao
năng suất. Khi quá trình công nghiệp hóa đã đang tiến triển ở các phần
khác của thế giới trong thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi,
thì những người Somali mang mối thù hận và tự lo liệu cho cuộc sống của
họ, và sự lạc hậu kinh tế của họ đã trở nên ăn sâu thêm.
SỰ LẠC HẬU KÉO DÀI
Cách mạng Công nghiệp đã tạo ra một bước ngoặt biến đổi cho toàn bộ
thế giới trong thế kỷ thứ mười chín và xa hơn. Nhưng nhiều xã hội quanh
thế giới đã không làm được thế – hay đã chọn một cách tường minh để
không làm thế. Các quốc gia dưới ách của các thể chế chính trị và kinh
tế chiếm đoạt đã không tạo ra các khuyến khích như vậy. Tây Ban Nha và
Ethiopia cung cấp các thí dụ. Kết quả đã giống nhau trong các chế độ
chuyên chế khác – ở Áo-Hungary, Nga, Ðế chế Ottoman, và Trung Quốc, mặc
dù trong các trường hợp này các nhà cai trị đã không chỉ sao lãng cổ vũ
tiến bộ kinh tế mà còn đưa ra các bước cụ thể để cản trở sự mở rộng công
nghiệp và việc đưa các công nghệ mới vào.
Thế nhưng ngay cả hiện nay, nhiều quốc gia, như Afghanistan, Haiti,
Nepal, và Somalia, có các nhà nước không có khả năng duy trì trật tự thô
sơ nhất, và các khuyến khích kinh tế hầu như bị hủy hoại. Trong khi
nhiều thứ khác nhau của các thể chế chiếm đoạt trải từ chính thể chuyên
chế đến các nhà nước với ít tập trung hóa đã không tận dụng được lợi thế
của sự mở rộng công nghiệp, bước ngoặt của Cách mạng Công nghiệp đã có
những tác động rất khác trong các phần khác của thế giới.
Chương 9: SỰ PHÁT TRIỂN ÐẢO NGƯỢC
GIA VỊ VÀ TỘI DIỆT CHỦNG
Quần đảo Molucca ở Indonesia. từ thế kỷ 15 đã là trung tâm thương mại
thế giới với các gia vị có giá trị như đinh hương, mace (gia vị làm từ
vỏ khô của hạt nhục đậu khấu), và nutmeg (nhục đậu khấu).. Các đảo này
đã xuất khẩu các gia vị hiếm này để đổi lấy thực phẩm và các hàng hóa từ
Java, Malaysia, Ấn Ðộ, Trung Quốc, và Arabia.
Tiếp xúc đầu tiên các cư dân đã có với người Âu châu là trong thế kỷ
mười sáu, Những người Bồ Ðào Nha đã chiếm Melaka năm 1511.Họ đã thử để
có được độc quyền về buôn bán gia vị có giá trị. Họ đã thất bại.
Các đối thủ mà họ đối mặt là đáng kể. Các thành-quốc như Aceh,
Banten, Melaka, Makassar, Pengu, và Brunei đã mở rộng nhanh chóng, sản
xuất và xuất khẩu gia vị cùng với các sản phẩm khác như gỗ cứng.
Sự hiện diện của những người Âu châu đã phình lên và đã có tác động
lớn hơn nhiều với sự đến của người Hà Lan. Họ đã mau chóng nhận ra rằng
sự độc quyền cung ứng các gia vị có giá trị của Molucca sẽ có lợi nhuận
hơn rất nhiều so với việc cạnh tranh với các nhà buôn địa phương hay Âu
châu khác.
Những người Hà Lan cũng đã nắm quyền kiểm soát các Ðảo Banda, dự định
lần này để độc quyền mace và nutmeg. Ðã không có nhà chức trách trung
ương để có thể ép buộc ký một thỏa ước độc quyền và đã không có hệ thống
cống nạp nào để họ chiếm toàn bộ cung nutmeg và mace. Các kế hoạch ban
đầu về dựng lên một sự độc quyền về mace và nutmeg đã bị tan vỡ, thống
đốc Hà Lan của Batavialà Coen đã nghĩ ra một kế hoạch khác. Trong năm
1621 ông ta đã đi đến Banda với một đội tàu và tiến hành tàn sát hầu như
toàn bộ dân cư của các đảo, có lẽ khoảng mười lăm ngàn người. và chỉ để
lại vài người còn sống, đủ để duy trì know-how cần thiết cho sản xuất
mace và nutmeg. Coen đã tiếp tục tạo ra cấu trúc chính trị và kinh tế
cần thiết cho kế hoạch của ông ta: một xã hội đồn điền.
Để tránh sự đe dọa của Công ty Ðông Ấn Hà Lan, nhiều nhà nước đã từ
bỏ sản xuất các cây trồng cho xuất khẩu và ngừng hoạt động thương mại.
Sự tự cấp tự túc là an toàn hơn sự đối mặt với người Hà Lan. Trong năm
1620 nhà nước Banten, trên đảo Java, đã đẵn những cây hồ tiêu của nó với
hy vọng rằng việc này sẽ khiến những người Hà Lan để cho nó yên.
Như được minh họa bởi kinh nghiệm của Molucca dưới thời Hà Lan, sự mở
rộng chiếm đóng đã gieo các hạt chậm phát triển ở nhiều nơi khác nhau
trên thế giới bằng cách áp đặt các thể chế chiếm đoạt, hay tăng cường
thêm các thể chế hiện tồn. Những việc này hoặc một cách trực tiếp hay
một cách gián tiếp đã tiêu diệt hoạt động thương mại và công nghiệp manh
nha trên khắp thế giới hay chúng đã duy trì mãi các thể chế ngăn chặn
công nghiệp hóa. Như một kết quả, khi công nghiệp hóa lan ra một số phần
của thế giới, các nơi đã là bộ phận của các đế chế thuộc địa Âu châu đã
chẳng có cơ hội nào để hưởng lợi từ những công nghệ mới này.
THỂ CHẾ QUÁ THÔNG THƯỜNG
Ở Ðông Nam Á, sự mở rộng của sức mạnh hải quân và thương mại Âu châu
trong thời kỳ đầu hiện đại đã tước mất một thời kỳ hứa hẹn về mở rộng
kinh tế và thay đổi thể chế. Trong cùng thời kỳ khi Công ty Ðông Ấn Hà
Lan mở rộng, một loại buôn bán rất khác đang tăng cường ở châu Phi: buôn
bán nô lệ.
Trong thời kỳ La Mã các nô lệ đến từ những người Slavic quanh Biển
Ðen, từ Trung Ðông, và cũng từ Bắc Âu. Nhưng vào năm 1400 những người Âu
châu đã chấm dứt bắt nhau làm nô lệ. Châu Phi, đã không trải qua sự
chuyển đổi từ chế độ nô lệ sang chế độ nông nô như châu Âu.
Sự xuất hiện đột ngột của những người Âu châu khắp vùng ven biển Tây
và Trung Phi hăm hở mua nô lệ không còn cách nào khác đã có một tác động
biến đổi lên các xã hội Phi châu. Hầu hết nô lệ, được chở sang châu Mỹ,
đã là những người bị bắt trong chiến tranh và rồi được chở ra ven biển.
Bắt đầu trong cuối thế kỷ thứ mười tám, một phong trào mạnh mẽ đòi
bãi bỏ sự buôn bán nô lệ bắt đầu lấy được đà ở Anh, dẫn đầu bởi nhân vật
có sức thuyết phục quần chúng lớn William Wilberforce. Sau những thất
bại lặp đi lặp lại, những người đòi xóa bỏ đã thuyết phục được Quốc hội
thông qua một dự luật làm cho buôn bán nô lệ trở nên bất hợp pháp. Hoa
Kỳ đã đi theo với biện pháp tương tự trong năm tiếp theo.
Khi xứ sở nô lệ tiến đến “thương mại hợp pháp”, một cụm từ được đặt
ra cho việc xuất khẩu các mặt hàng mới không gắn với buôn bán nô lệ từ
châu Phi. Các mặt hàng này bao gồm dầu cọ, nhân, lạc, ngà voi, cao su,
và gum Arabic (nhựa cây acacia). Khi thu nhập Âu châu và Bắc Mỹ tăng lên
với sự mở rộng của Cách mạng Công nghiệp, cầu về nhiều mặt hàng nhiệt
đới này đã tăng đột ngột.
Cho nên việc bãi bỏ buôn bán nô lệ, thay cho việc khiến cho tình
trạng nô lệ ở châu Phi teo đi, thì đơn giản lại đã dẫn đến sự tái triển
khai các nô lệ, những người bây giờ được dùng ở bên trong châu Phi hơn
là ở châu Mỹ.
Tình trạng nô lệ vẫn còn kéo dài ở Sierra Leone trong 130 năm.
Liberia, ngay nam Sierra Leone, cũng thế đã được thành lập cho các nô lệ
Mỹ được giải phóng trong các năm 1840. Thế nhưng ở đó, cũng thế, tình
trạng nô lệ đã kéo dài vào thế kỷ thứ hai mươi, mãi đến tận các năm
1960, đã được ước lượng rằng một phần tư của lực lượng lao động đã bị
cưỡng bức, sống và làm việc dưới các điều kiện gần với tình trạng nô lệ.
Căn cứ vào các thể chế kinh tế và chính trị chiếm đoạt dựa trên buôn
bán nô lệ, công nghiệp hóa đã không lan ra châu Phi hạ-Sahara, mà đã trì
trệ hay thậm chí đã trải qua sự chậm phát triển kinh tế khi các phần
khác của thế giới đang biến đổi nền kinh tế của họ.
TẠO RA MỘT NỀN KINH TẾ KÉP
Hệ thuyết “nền kinh tế kép” (“dual economy” paradigm), ban đầu được
Sir Athur Lewis đề xuất năm 1955, vẫn định hình cách mà hầu hết các nhà
khoa học xã hội nghĩ về các vấn đề kinh tế của các nước kém-phát triển.
Theo Lewis, nhiều nền kinh tế kém-phát triển hay chậm-phát triển có một
cấu trúc kép và được chia thành một khu vực hiện đại và một khu vực
truyền thống.
Lewis đã chắc chắn đúng trong nhận diện các nền kinh tế kép. Nam Phi
đã là một trong các thí dụ rõ nhất, tách thành một khu vực truyền thống
lạc hậu và nghèo nàn và một khu vực hiện đại sôi động và thịnh vượng.
Nam Phi đã tránh được hầu hết những tác động có hại của sự buôn bán
nô lệ và những cuộc chiến tranh do nó gây ra. Sự tương tác lớn đầu tiên
của Nam Phi với những người Âu châu đã xảy ra khi Công ty Ðông Ấn Hà Lan
thành lập một cơ sở tại Vịnh Table, năm 1652. Vào thời này bờ tây của
Nam Phi đã được định cư thưa thớt. Xa sang phía đông, đã có các xã hội
Phi châu cư trú đông đúc chuyên môn hóa về nông nghiệp. Như một hệ quả,
các xã hội này đã không cảm thấy tác động chính của nhiều trào lưu có
hại đã giáng xuống Tây và Trung Phi.
Giai đoạn tiếp theo của sự phát triển của Nam Phi đến với sự khám phá
ra những khu mỏ kim cương và những mỏ vàng năm 1886. Sự giàu có khoáng
sản khổng lồ này trong nội địa đã ngay lập tức thuyết phục những người
Anh để mở rộng sự kiểm soát của họ ra toàn Nam Phi. Nổi bật nhất, chúng
đã tạo ra cầu đối với thực phẩm và các sản phẩm nông nghiệp khác và đã
tạo ra các cơ hội kinh tế mới cho những người Phi châu bản địa trong cả
nông nghiệp và thương mại.
Châu Phi chắc chắn đã không gần một cuộc Cách mạng Công nghiệp, nhưng
sự thay đổi thực đã đang xảy ra. Tài sản tư nhân về đất đã làm yếu các
thủ lĩnh và đã cho phép những người mới mua đất và làm giàu, cái gì đó
đã không thể tưởng tượng nổi chỉ vài thập kỷ trước đó.
Một mẩu bằng chứng lạ thường trụ đỡ cho sự năng động kinh tế và sự
thịnh vượng của các nông dân Phi châu trong thời kỳ này được tiết lộ
trong một bức thư gửi năm 1869 bởi một nhà truyền giáo Methodist, W. J.
Davis. Viết cho nước Anh, ông ghi nhận với niềm vui rằng ông đã thu được
bốn mươi sáu bảng tiền mặt “cho Quỹ Cứu tế Bông Lancashire.” Trong thời
kỳ này các nông dân Phi châu phát đạt đã quyên tiền cứu tế cho các công
nhân dệt nghèo ở Anh!
Sự năng động kinh tế mới này, không ngạc nhiên, đã không làm vừa lòng
các thủ lĩnh truyền thống, những người, theo hình mẫu mà bây giờ là
quen thuộc với chúng ta, đã thấy việc này làm xói mòn sự giàu có và
quyền lực của họ.
Các thủ lĩnh cũng đã chống lại những sự cải thiện được tiến hành trên
đất, như đào các mương thủy lợi hay xây dựng hàng rào. Họ đã nhận ra
rằng những sự cải thiện này chỉ là một bước dạo đầu cho các quyền tài
sản cá nhân đối với đất, sự bắt đầu của sự kết thúc đối với họ.
Ngay cả một chút các thể chế dung hợp và sự xói mòn quyền lực của các
thủ lĩnh và những hạn chế của họ đã là đủ để khởi động một đợt bột phát
kinh tế Phi châu đầy sinh khí. Chao ôi, nó đã thật ngắn ngủi. Giữa 1890
và 1913 nó đi đến một sự kết thúc đột ngột và đảo ngược. Trong thời kỳ
này hai lực đã hoạt động để phá hủy sự thịnh vượng thôn quê và sự năng
động mà những người Phi châu đã tạo ra trong năm mươi năm trước. Thứ
nhất đã là sự phản đối của các nông dân Âu châu những người đã cạnh
tranh với những người Phi châu. Những nông dân Phi châu thành công đã
kéo giá cây trồng xuống mà những người Âu châu cũng sản xuất. Lực thứ
hai thậm chí còn nham hiểm hơn. Những người Âu châu đã muốn một lực
lượng lao động rẻ mạt để sử dụng vào nền kinh tế khai mỏ đang nảy nở, và
họ đã có thể đảm bảo cung lao động rẻ này chỉ bằng cách bần cùng hóa
những người Phi châu.
Cả hai mục tiêu đã đồng thời được thực hiện bởi Bộ Luật Ðất Bản địa
năm 1913. Bộ luật, tiên liệu trước quan niệm của Lewis về nền kinh tế
kép, đã chia Nam Phi thành hai phần, một phần hiện đại thịnh vượng và
một phần truyền thống nghèo. Bộ luật Ðất đai đã có nhiều tiền đề từ
trước bởi vì dần dần những người Âu châu đã hạn chế những người Phi châu
trong các miếng đất nhỏ hơn và nhỏ hơn. Nhưng chính Bộ luật 1913 đã là
cái thể chế hóa một cách dứt khoát tình trạng và đã dựng vũ đài cho sự
hình thành của chế độ Apartheid Nam Phi, với thiểu số da trắng có cả các
quyền chính trị và kinh tế và đa số da đen bị loại trừ khỏi cả hai.
Pháp luật 1913 cũng đã bao gồm các điều khoản dự trù để chặn những
người lĩnh canh và những người chiếm đất da đen khỏi việc canh tác trên
đất do người da trắng sở hữu trong bất cứ tư cách nào khác với tư cách
tá điền làm thuê.
Trừ chuyện nền kinh tế kép đã không phải là tự nhiên hay không thể
tránh khỏi. Nó đã được tạo ra bởi chủ nghĩa thuộc địa Âu châu. Những sự
thay đổi chính trị bắt đầu xảy ra cũng đã đi theo chiều ngược lại. Quyền
lực của các thủ lĩnh và những kẻ cai trị truyền thống, mà trước đây
trong suy tàn, thì được củng cố, bởi vì phần của dự án để tạo ra một lực
lượng lao động rẻ mạt đã là xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về đất. Cho nên
sự kiểm soát của các thủ lĩnh đối với đất đã được tái khẳng định. Các
biện pháp này đã đạt đỉnh điểm của chúng trong năm 1951, khi chính phủ
thông qua Ðạo luật Nhà chức trách Bantu.
Sự tước quyền sở hữu của các nông dân Phi châu đã dẫn đến sự bần cùng
hóa hàng loạt của họ. Nó đã tạo ra không chỉ các nền tảng thể chế của
một nền kinh tế lạc hậu, mà đã tạo ra những người nghèo để cung ứng cho
nó, Nam Phi đã trở thành nước bất bình đẳng nhất trên thế giới.
Nền kinh tế kép của Nam Phi đã có đi đến một kết thúc trong năm 1994.
Nhưng không phải bởi vì các lý do mà Sir Arthur Lewis đã bàn lý luận
về. Ðã không phải là sự diễn tiến tự nhiên của sự phát triển kinh tế đã
chấm dứt vạch màu và các Xứ sở. Những người Nam Phi da đen đã phản đối
và đã đứng lên chống lại chế độ mà đã không công nhận các quyền cơ bản
của họ và đã không chia sẻ các lợi ích của sự tăng trưởng kinh tế với
họ. Sau cuộc khởi nghĩa Soweto năm 1976, những cuộc phản kháng đã trở
nên có tổ chức hơn và mạnh hơn, cuối cùng đã lật đổ nhà nước Apartheid.
Chính sự trao quyền của những người da đen, những người đã tìm được cách
để tổ chức và đứng lên, là cái cuối cùng đã chấm dứt nền kinh tế kép
của Nam Phi theo cùng cách mà lực lượng chính trị của những người da
trắng Nam Phi đã tạo ra nó trước hết.
SỰ PHÁT TRIỂN BỊ ÐẢO NGƯỢC
Sự bất bình đẳng thế giới ngày nay tồn tại bởi vì trong các thế kỷ
thứ mười chín và hai mươi một số quốc gia đã có khả năng tận dụng lợi
thế của Cách mạng Công nghiệp và các công nghệ và các phương pháp tổ
chức mà nó mang lại, trong khi các quốc gia khác đã không có khả năng
làm vậy.
Câu chuyện của một trong những nền văn minh cổ xưa nhất ở châu Á, Ấn
Ðộ, là tương tự, mặc dù sự đảo ngược phát triển đã không do người Hà Lan
mà do người Anh gây ra. Ấn Ðộ đã là nhà sản xuất và xuất khẩu hàng dệt
lớn nhất thế giới trong thế kỷ thứ mười tám. Công ty Ðông Ấn của Anh đã
sử dụng thế kỷ thứ mười bảy để thử thiết lập một độc quyền về các hàng
xuất khẩu có giá trị từ Ấn Ðộ. Công ty Ðông Ấn đã cướp bóc của cải địa
phương và đã tiếp quản, và có lẽ thậm chí đã tăng cường, các thể chế
đánh thuế khai thác của các nhà cai trị Mughal của Ấn Ðộ. Sự mở rộng này
đã trùng với sự co lại ồ ạt của ngành dệt Ấn Ðộ, vì, rốt cuộc, đã không
còn thị trường cho các mặt hàng này ở Anh. Sự co lại đã đi cùng với
thoái-đô thị hóa và sự nghèo khó gia tăng. Nó đã khởi xướng một giai
đoạn dài của sự phát triển bị đảo ngược ở Ấn Ðộ. Chẳng bao lâu sau, thay
cho sản xuất hàng dệt, những người Ấn Ðộ đã mua chúng từ Anh và trồng
thuốc phiện cho Công ty Ðông Ấn để bán ở Trung Quốc.
(Còn tiếp)