Giới thiệu tóm tắt “Tại sao các quốc gia thất bại” (Đoạn 7) (Nguyễn Đình Cống)
Khi các thể chế chiếm đoạt tạo ra những sự
bất bình đẳng khổng lồ trong xã hội và sự giàu có hết sức và quyền lực
không bị kiềm chế cho những người nắm quyền kiểm soát, thì sẽ có nhiều
người muốn chiến đấu để giành sự kiểm soát nhà nước và các thể chế. Các
thể chế chiếm đoạt khi đó không chỉ mở đường cho chế độ tiếp theo, mà sẽ
thậm chí chiếm đoạt hơn, nhưng chúng cũng gây ra sự đấu đá nội bộ liên
miên và các cuộc nội chiến. Các cuộc nội chiến này rồi gây ra nhiều sự
đau khổ con người và cũng phá hủy ngay cả một chút sự tập trung hóa nhà
nước mà các xã hội này đã đạt được. Việc này cũng thường khởi động một
quá trình sa sút thành tình trạng không có luật pháp, sự thất bại nhà
nước, và hỗn loạn chính trị, nghiền nát mọi hy vọng về sự thịnh vượng
kinh tế.
Chương 12: VÒNG LUẨN QUẨN
KHÔNG THỂ ÐI XE LỬA ÐẾN BO NỮA
Toàn bộ quốc gia tây Phi Sierra Leone đã trở thành thuộc địa Anh
trong năm 1896. Thành phố thủ đô, Freetown, ban đầu như một quê hương
cho các nô lệ được hồi hương. Nhưng khi Freetown trở thành một thuộc địa
Anh, nội địa Sierra Leone vẫn gồm nhiều vương quốc nhỏ Phi châu. Người
Anh đã gọi các nhà cai trị là “thủ lĩnh tối cao”.
Khi những người Anh đã thử thu thuế lều, trong tháng Giêng 1898, các
thủ lĩnh đã đứng lên trong một cuộc nội chiến được biết đến như Nổi loạn
Thuế Lều (Hut Tax Rebellion). Nổi loạn Thuế Lều đã mau chóng thất bại,
nhưng nó đã cảnh cáo những người Anh về các thách thức của việc kiểm
soát nội địa Sierra Leone
. Những người Anh đã bắt đầu xây dựng một đường sắt từ Freetown vào
nội địa. Công việc đã bắt đầu trong tháng Ba 1896, và tuyến đường sắt đã
đến Songo Town tháng Mười Hai 1898, giữa cuộc Nổi loạn Thuế Lều. Con
đường đã bị thay đổi sau khi bắt đầu vụ bạo loạn, cho nên thay vì đi
theo hướng đông bắc, nó đã đi xuống phía nam, qua Rotifunk và đến Bo,
vào đất Mende (Mendeland).
Khi Sierra Leone trở nên độc lập năm 1961, những người Anh đã trao
quyền lực cho Ðảng Nhân dân Sierra Leone (Sierra Leone People’s Party
(SLPP). Mặc dù đường sắt xuống phía nam ban đầu đã được thiết kế bởi
những người Anh để cai trị Sierra Leone, vào năm 1967 vai trò của nó đã
là kinh tế, chuyên chở hầu hết hàng xuất khẩu của đất nước: cà phê,
cocoa, và kim cương.
Nhưng rồi SLPP đã thua đảng đối lập do Stevens lãnh đạo. Stevens cho
rằng việc xuất khẩu đã làm lợi cho SLPP nên đã cho ngừng tuyến đường sắt
đến Mendeland. Rồi ông đã bán tống bán tháo đường ray và nguyên liệu
lưu chuyển để làm cho sự thay đổi càng không thể đảo ngược được càng
tốt. Không còn tàu hỏa đi đến Bo nữa. Tất nhiên, hành động quyết liệt
của Stevens đã gây thiệt hại một cách tai họa cho một số khu vực sôi
động của nền kinh tế Sierra Leone. Stevens chọn củng cố quyền lực của
mình, và ông đã chẳng bao giờ nhìn lại. Ngày nay không thể đi tàu hỏa
đến Bo nữa. Stevens như thế đã củng cố quyền lực của mình một cách thành
công, cho dù với cái giá làm bần cùng phần lớn nội địa.
Trong thời kỳ thuộc địa, người Anh đã sử dụng một hệ thống cai trị
gián tiếp để quản lý Sierra Leone, Nhiều người đã kỳ vọng các tập quán
tồi nhất của sự cai trị thuộc địa ở châu Phi hạ-Sahara ngừng lại sau độc
lập, và việc sử dụng các hội đồng marketing để đánh thuế quá đáng các
nông dân sẽ chấm dứt. Nhưng chẳng việc nào đã xảy ra. Trên thực tế, sự
tước đoạt các nông dân bằng cách sử dụng các hội đồng marketing đã trở
nên tồi hơn nhiều.
Ðiều đáng chú ý là mức độ của tính liên tục giữa Sierra Leone thuộc
địa và Sierra Leone độc lập. Người Anh đã tạo ra các hội đồng marketing
và đã sử dụng chúng để đánh thuế các nông dân. Các chính phủ hậu thuộc
địa cũng làm thế, tước đoạt với các tỷ lệ thậm chí còn cao hơn. Người
Anh đã tạo ra hệ thống cai trị gián tiếp thông qua các thủ lĩnh tối cao.
Các chính phủ tiếp sau sự độc lập đã không loại bỏ thể chế thuộc địa
này; đúng hơn, họ đã sử dụng nó để cai trị cả vùng nông thôn nữa. Người
Anh đã lập ra một độc quyền kim cương và đã thử không cho phép các nhà
khai mỏ Phi châu. Các chính phủ sau độc lập đã làm y thế. Ðúng là, người
Anh đã nghĩ rằng xây dựng đường sắt đã là cách tốt để cai trị
Mendeland, còn Siaka Stevens thì đã nghĩ ngược lại. Người Anh đã có thể
tin cậy quân đội của họ và đã biết nó có thể được điều động đến
Mendeland nếu một cuộc nổi loạn nảy sinh. Stevens, ngược lại, đã không
thể làm như vậy.
Sự thiếu phát triển, của Sierra Leone đã có thể được hiểu kỹ nhất như
kết quả của vòng luẩn quẩn. Trước hết, các nhà chức trách thuộc địa Anh
đã xây dựng các thể chế chiếm đoạt, và các chính trị gia Phi châu sau
độc lập đã rất vui vẻ nắm lấy gậy chỉ huy cho bản thân họ. Hình mẫu đã
tương tự một cách bí hiểm đáng sợ trên toàn bộ châu Phi hạ-Sahara. Ðã có
những hy vọng tương tự cho Ghana, Kenya, Zambia, và nhiều nước Phi châu
sau độc lập. Thế nhưng, trong tất cả các trường hợp, các thể chế chiếm
đoạt đã được tái tạo lại theo một hình mẫu được tiên đoán bởi vòng luẩn
quẩn.
Còn một cơ chế khác nữa cho vòng luẩn quẩn là, các thể chế chiếm
đoạt, bằng cách tạo ra quyền lực không bị kiềm chế và sự bất bình đẳng
thu nhập lớn, làm tăng sự đặt cược chính trị của trò chơi chính trị. Bởi
vì bất cứ ai kiểm soát nhà nước đều trở thành người hưởng quyền lực quá
đáng và của cải mà nó đẻ ra, các thể chế chiếm đoạt tạo ra các khuyến
khích cho việc đấu đá nội bộ nhằm kiểm soát quyền lực và các lợi ích của
nó, một động lực mà chúng ta thấy đã hoạt động ở các thành-quốc Maya và
ở Rome Cổ xưa. Dưới ánh sáng này, không ngạc nhiên rằng các thể chế
chiếm đoạt , mà nhiều nước Phi châu đã thừa kế từ các cường quốc thuộc
địa, đã gieo hạt của các cuộc tranh giành quyền lực và các cuộc nội
chiến. Các cuộc đấu tranh này là các xung đột rất khác với Nội chiến Anh
và Cách mạng Vinh quang. Chúng đã không được chiến đấu để làm thay đổi
các thể chế chính trị, để đưa ra các ràng buộc lên việc sử dụng quyền
lực, hay để tạo ra chủ nghĩa đa nguyên, mà để chiếm quyền và làm giàu
cho một nhóm với sự tổn hại của những người còn lại. Ở Angola, Burundi,
Chad, Côte d’Ivoire, Cộng hòa Dân chủ Congo, Ethiopia, Liberia,
Mozambique, Nigeria, Cộng hòa Congo Brazzaville, Rwanda, Somalia, Sudan,
và Uganda, và tất nhiên ở Sierra Leone, như chúng ta sẽ thấy chi tiết
hơn trong chương tiếp theo, những xung đột này đã biến thành các cuộc
nội chiến đẫm máu và tạo ra sự đổ nát kinh tế và sự đau khổ con người
không đâu sánh kịp – cũng như gây ra sự thất bại nhà nước.
TỪ ENCOMIENDA ÐẾN SỰ CHIẾM ÐOẠT ÐẤT
Ngày 14-1-1993, Ramiro De León Carpio đã tuyên thệ với tư cách tổng
thống Guatemala. Ông đã bổ nhiệm Richard Aitkenhead Castillo làm bộ
trưởng tài chính, và Ricardo Castillo Sinibaldi làm bộ trưởng phát triển
của mình. Cả ba người này đã có cái gì đó chung: tất cả họ đều là những
hậu duệ trực tiếp của các nhà chinh phục Tây Ban Nha, những người đã
đến Guatemala vào đầu thế kỷ thứ mười sáu. Những dòng họ này đã kiểm
soát quyền lực kinh tế và chính trị ở Guatemala từ năm 1531. Các dòng họ
này đã là phần của giới elite, chỉ chiếm hơn 1 phần trăm dân cư trong
các năm 1990.
Ở Guatemala, như ở phần lớn Trung Mỹ, chúng ta thấy một dạng đơn giản
hơn, trần trụi hơn của vòng luẩn quẩn: những người có quyền lực kinh tế
và chính trị đã sắp đặt các thể chế để bảo đảm tính liên tục của quyền
lực của họ, và họ đã thành công trong việc làm như vậy. Loại này của
vòng luẩn quẩn dẫn đến sự tồn tại dai dẳng của các thể chế chiếm đoạt và
sự tồn tại dai dẳng của các elite nắm quyền lực, cùng với sự tồn tại
dai dẳng của của sự chậm phát triển.
Elite Guatemala đã xem xét Hiến pháp Cadiz với sự thù nghịch, đã
khuyến khích họ để tuyên bố độc lập đúng như các elite Mexico đã làm.
Tiếp sau một sự hợp nhất ngắn với Mexico và Liên hiệp Trung Mỹ, elite
thuộc địa đã cai trị Guatemala dưới chế độ độc tài của Rafael Carrera từ
1839 đến 1871. Trong thời kỳ này các hậu duệ của các nhà chinh phục và
elite bản xứ đã duy trì các thể chế kinh tế chiếm đoạt của thời kỳ thuộc
địa phần lớn không thay đổi. Ngay cả tổ chức Consulado đã không thay
đổi sau độc lập. Mặc dù đấy đã là một thể chế hoàng gia, nó đã vui vẻ
tiếp tục dưới một chính phủ cộng hòa.
Sự độc lập sau đó đã đơn giản là một cuộc đảo chính bởi elite địa
phương đã tồn tại từ trước, đúng như ở Mexico; họ đã tiếp tục như thường
lệ với các thể chế kinh tế chiếm đoạt mà từ đó họ đã hưởng lợi rất
nhiều.
Như một kết quả của sự chi phối này của elite, Guatemala đã bị mắc
trong một sự sai lạc thời gian (cuộn thời gian) vào giữa thế kỷ thứ mười
chín, khi phần còn lại của thế giới thay đổi nhanh chóng.
Sản xuất cà phê đã cần đến đất và lao động. Những người Liberal đã
làm đến cùng việc tư nhân hóa đất đai, trên thực tế là một sự chiếm đoạt
mà trong đó họ có khả năng. Mặc dù cố gắng của họ đã bị tranh cãi gay
gắt, căn cứ vào các thể chế chính trị hết sức chiếm đoạt và sự tập trung
của quyền lực chính trị ở Guatemala, cuối cùng elite đã thắng. Giữa
1871 và 1883 gần một triệu mẫu (acre) đất, hầu hết là đất chung của
người bản xứ và đất biên cương, đã chuyển vào tay elite, và chỉ sau đó
cà phê mới phát triển nhanh chóng.
Việc cưỡng bức người lao động đã chẳng bao giờ bị bãi bỏ sau độc lập, bây giờ nó được tăng về quy mô và thời gian.
Ðúng như trước 1871, elite Guatemala đã cai trị qua những người lính
mạnh mẽ. Họ đã tiếp tục làm vậy sau khi đợt hưng thịnh bột phát về cà
phê cất cánh. Jorge Ubico, tổng thống giữa 1931 và 1944, đã cai trị dài
nhất. Ubico đã thắng cuộc bầu cử tổng thống năm 1931 không gặp sự đối
lập. Sự phản đối chế độ của ông chỉ tăng lên trong năm 1944, dẫn đầu bởi
các sinh viên. Ngày 24 tháng Sáu, 311 người, nhiều trong số đó từ giới
elite, đã ký Memorial de los 311, một bức thư ngỏ lên án chế độ. Ubico
đã từ chức ngày 1 tháng Bảy. Mặc dù tiếp sau ông đã là một chế độ dân
chủ trong năm 1945, chế độ này đã bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính năm
1954, dẫn đến một cuộc nội chiến. Guatemala đã lại dân chủ hóa chỉ sau
1986.
Ở Guatemala, như ở phần lớn Trung Mỹ, theo một hình mẫu điển hình của
vòng luẩn quẩn, các thể chế chính trị chiếm đoạt ủng hộ các thể chế
kinh tế chiếm đoạt, mà đến lượt lại cung cấp cơ sở cho các thể chế chính
trị chiếm đoạt và sự tiếp tục của quyền lực của cùng elite.
Lý do của chuyện quỹ đạo kinh tế và chính trị của miền Nam Hoa Kỳ đã
chẳng thay đổi, cho dù chế độ nô lệ đã bị xóa bỏ và những người đàn ông
da đen đã được trao quyền bầu cử, là bởi vì sức mạnh chính trị và sự độc
lập kinh tế của những người da đen đã mỏng manh.
Các chính trị gia miền nam ở Washington cũng đã làm việc để bảo đảm
rằng các thể chế chiếm đoạt của miền Nam vẫn còn. Thí dụ, họ đã bảo đảm
rằng không dự án hay công trình công cộng liên bang nào, mà đã có thể
gây nguy hiểm đến sự kiểm soát của elite miền nam đối với lực lượng lao
động da đen, được chấp thuận. Vì thế, miền Nam đã bước vào thế kỷ thứ
hai mươi như một xã hội chủ yếu là nông thôn với mức giáo dục thấp và
công nghệ lạc hậu, vẫn áp dụng lao động chân tay và sức kéo của những
con la hầu như không được trợ giúp bởi các công cụ cơ giới. Mặc dù tỷ lệ
dân số đô thị đã tăng lên, nó đã ít hơn ở miền Bắc rất nhiều. Thí dụ,
trong năm 1900, 13,5 phần trăm dân số miền Nam sống ở đô thị, so với 60
phần trăm ở Ðông Bắc.
Xét về mọi mặt, các thể chế chiếm đoạt ở miền nam Hoa Kỳ, dựa trên
quyền lực của elite sở hữu đất, nền nông nghiệp đồn điền, và lao động
lương thấp, giáo dục thấp, đã tồn tại dai dẳng lâu vào thế kỷ thứ hai
mươi. Các thể chế này đã bắt đầu sụp đổ chỉ sau Chiến tranh Thế giới lần
thứ Hai và rồi thật sự sau phong trào các quyền dân sự đã phá hủy cơ sở
chính trị của hệ thống. Và chỉ sau khi các thể chế này chết đi trong
các năm 1950 và 1960 thì miền Nam mới bắt đầu quá trình hội tụ nhanh của
nó với miền Bắc.
QUY LUẬT SẮT CỦA CHÍNH THỂ ÐẦU SỎ
Triều đại Solomonic ở Ethiopia đã kéo dài cho đến khi nó bị lật đổ
bởi một cuộc đảo chính quân sự trong năm 1974. Cuộc đảo chính đã được
lãnh đạo bởi Derg, một nhóm Marxist sĩ quan quân đội. Chế độ mà Derg hất
khỏi quyền lực đã trông giống như được làm đông lạnh trong thế kỷ trước
nào đó với vị hoàng đế Haile Selassie và đám quần thần.
Ban đầu Derg đã được hình thành từ 108 đại diện của các đơn vị quân
sự khác nhau từ khắp đất nước.Vào tháng Mười Hai, Derg đã tuyên bố rằng
Ethiopia là một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong năm 1975 Derg đã bắt
đầu quốc hữu hóa tài sản, gồm tất cả đất đô thị và nông thôn và hầu hết
các loại tài sản tư nhân. Ứng xử ngày càng độc đoán của chế độ đã châm
ngòi cho sự phản đối khắp đất nước.
Trong năm 1978 chế độ đã tổ chức một cuộc kỷ niệm quốc gia đánh dấu
kỷ niệm lần thứ tư sự lật đổ Haile Selassie. Vào thời gian này Mengistu
đã là nhà lãnh đạo không bị thách thức của Derg. Ông đã chọn Cung điện
Lớn của Selassie làm nơi ở. Tại buổi lễ kỷ niệm, ông đã ngồi trên một
chiếc ghế bành mạ vàng để theo dõi cuộc duyệt binh, hệt như các hoàng đế
thời xưa. Những hoạt động chính thức bây giờ lại được tiến hành ở Cung
điện Lớn, với Mengistu ngồi trên ngai vàng cũ của Haile Selassie. Ðã là
một sự đảo ngược hoàn toàn của các lý tưởng của Cách mạng.
Hình mẫu của vòng luẩn quẩn được mô tả bởi sự chuyển tiếp giữa Haile Selassie và Mengistu.
Tất cả đã là một trò hề, nhưng cũng đã bi thảm hơn thảm kịch ban đầu,
và không chỉ vì những hy vọng đã bị tan vỡ. Stevens và Kabila, giống
nhiều nhà cai trị khác ở châu Phi, đã bắt đầu giết các đối thủ của họ và
rồi các công dân vô tội. Mengistu và các chính sách của Derg đã gây ra
nạn đói tái diễn định kỳ cho các vùng đất màu mỡ của Ethiopia. Lịch sử
đã lặp lại chính mình, nhưng trong một dạng rất bị bóp méo. Ðã có một
nạn đói ở tỉnh Wollo trong năm 1973 mà đối với nó Haile Selassie đã thờ ơ
một cách rõ ràng mà cuối cùng sự thờ ơ ấy đã đóng góp rất nhiều vào
việc củng cố sự chống đối chế độ của ông ta. Selassie chí ít đã chỉ thờ
ơ. Mengistu thay vào đó đã coi nạn đói như một công cụ chính trị để làm
xói mòn sức mạnh của các đối thủ của ông. Lịch sử đã không chỉ có tính
khôi hài và bi kịch, mà cũng tàn nhẫn với các công dân của Ethiopia và
phần lớn của châu Phi hạ-Sahara.
Cộng đồng quốc tế đã nghĩ rằng sự độc lập Phi châu hậu thuộc địa sẽ
dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế thông qua quá trình lập kế hoạch nhà nước
và nuôi dưỡng khu vực tư nhân. Nhưng đã không có khu vực tư nhân ở đó –
trừ ở vùng nông thôn, mà đã không có sự đại diện nào trong các chính
phủ mới và như thế sẽ là con mồi đầu tiên của chúng. Có lẽ quan trọng
nhất, trong hầu hết các trường hợp này, đã có lợi ích khổng lồ từ sự nắm
quyền. Những lợi ích này đã thu hút những người vô lương tâm nhất, như
Stevens, những người đã muốn độc quyền hóa quyền lực này, và đã làm lộ
ra cái tồi nhất của họ một khi họ đã nắm quyền lực. Ðã chẳng có gì để
phá vỡ vòng luẩn quẩn.
PHẢN HỒI ÂM VÀ CÁC VÒNG LUẨN QUẨN
Các quốc gia giàu phần lớn bởi vì họ đã tìm được cách để phát triển
các thể chế dung hợp tại điểm nào đó trong ba trăm năm qua. Các thể chế
này đã tồn tại bền bỉ thông qua một quá trình của các vòng thiện.
Như các vòng thiện làm cho các thể chế dung hợp bền bỉ, các vòng luẩn
quẩn tạo ra các lực hùng mạnh hướng tới sự tồn tại dai dẳng của các thể
chế chiếm đoạt. Lịch sử không phải là định mệnh, và các vòng luẩn quẩn
không phải là không thể bị phá vỡ, như chúng ta sẽ thấy thêm ở chương
14. Nhưng chúng có khả năng phục hồi nhanh. Chúng tạo ra một quá trình
mạnh mẽ của phản hồi âm, với các thể chế chính trị chiếm đoạt rèn đúc
các thể chế kinh tế chiếm đoạt, đến lượt lại tạo ra cơ sở cho sự dai
dẳng của các thể chế chính trị chiếm đoạt. Chúng ta đã thấy điều này rõ
nhất trong trường hợp của Guatemala, nơi elite đã nắm giữ quyền lực, đầu
tiên dưới sự cai trị thuộc địa, rồi ở Guatemala độc lập, trong hơn bốn
thế kỷ; các thể chế chiếm đoạt làm giàu cho elite, và của cải của họ tạo
thành cơ sở cho sự tiếp tục của sự thống trị của họ. Cùng quá trình của
vòng luẩn quẩn cũng hiển nhiên trong sự bền bỉ của nền kinh tế đồn điền
ở miền Nam Hoa Kỳ, trừ rằng nó cũng giới thiệu khả năng phục hồi nhanh
rất lớn của các vòng luẩn quẩn khi đối mặt với các thách thức.
Tất nhiên, quy luật sắt của chính thể đầu sỏ không phải là một quy
luật thật, theo nghĩa các quy luật của vật lý học. Nó không vẽ ra một
con đường không thể tránh khỏi, như Cách mạng Vinh quang ở nước Anh hay
Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản minh họa.
Còn có một khía cạnh khác nữa, thậm chí khía cạnh còn tàn phá hơn của
vòng luẩn quẩn, được lường trước bởi thảo luận của chúng ta về các
thành-quốc Maya ở chương 5. Khi các thể chế chiếm đoạt tạo ra những sự
bất bình đẳng khổng lồ trong xã hội và sự giàu có hết sức và quyền lực
không bị kiềm chế cho những người nắm quyền kiểm soát, thì sẽ có nhiều
người muốn chiến đấu để giành sự kiểm soát nhà nước và các thể chế. Các
thể chế chiếm đoạt khi đó không chỉ mở đường cho chế độ tiếp theo, mà sẽ
thậm chí chiếm đoạt hơn, nhưng chúng cũng gây ra sự đấu đá nội bộ liên
miên và các cuộc nội chiến. Các cuộc nội chiến này rồi gây ra nhiều sự
đau khổ con người và cũng phá hủy ngay cả một chút sự tập trung hóa nhà
nước mà các xã hội này đã đạt được. Việc này cũng thường khởi động một
quá trình sa sút thành tình trạng không có luật pháp, sự thất bại nhà
nước, và hỗn loạn chính trị, nghiền nát mọi hy vọng về sự thịnh vượng
kinh tế, như chương tiếp theo sẽ minh họa.
Chương 13: VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI NGÀY NAY
LÀM THẾ NÀO ÐỂ TRÚNG XỔ SỐ Ở ZIMBABWE
Tháng Giêng 2000 tại Harare, Zimbabwe. Fallot Chawawa viên chủ Nghi
lễ đã chịu trách nhiệm rút vé trúng thưởng cho xổ số quốc gia. Xổ số đã
được mở cho tất cả các khách hàng đã gửi năm ngàn Zimbabwe dollar hoặc
hơn trong tài khoản của họ trong tháng Mười Hai 1999. Khi Chawawa rút vé
ra, ông đã lặng người đi vì sửng sốt. Như tuyên bố công khai của
Zimbank diễn đạt, “Vị chủ Nghi lễ Fallot Chawawa đã hầu như không thể
tin vào mắt mình khi chiếc vé rút trúng thưởng Z$100.000 được chuyển cho
ông để công bố, và ông đã thấy tên Quý Ngài RG Mugabe viết trên đó.”
Tổng thống Robert Mugabe, người đã cai trị Zimbabwe bằng trăm phương
nghìn kế, và thường với bàn tay sắt, từ năm 1980, đã trúng xổ số.
Sau độc lập, Mugabe đã nhanh chóng thiết lập sự kiểm soát cá nhân của
mình. Ông hoặc đã loại bỏ các đối thủ của mình một cách hung dữ hay đã
kết nạp họ vào. Vào lúc độc lập, Mugabe đã tiếp quản một tập các thể chế
kinh tế chiếm đoạt được tạo ra bởi chế độ da trắng.
Mô hình điều tiết và sự can thiệp vào thị trường dần dần đã trở nên
không thể chịu được nữa, và một quá trình thay đổi thể chế, với sự ủng
hộ của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, đã bắt đầu trong năm
1991 sau một cuộc khủng hoảng tài khóa nghiêm trọng. Sự xấu đi của thành
tích kinh tế cuối cùng đã dẫn đến sự nổi lên của một phe đối lập chính
trị nghiêm túc đối với sự cai trị độc-đảng của ZANU-PF: Phong trào Thay
đổi Dân chủ (Movement for Democratic Change – MDC). Tuy vậy trong cuộc
bầu cử 1995 Mugabe đã thắng 93 phần trăm phiếu bầu, khi hai đối thủ của
ông đã rút lại sự ứng cử của họ trước bầu cử, tố cáo sự cưỡng bức và
gian lận của chính phủ.
Sau 2000, bất chấp tất cả sự tham nhũng này, sự kìm kẹp của ZANU-PF
đã yếu đi. Nó đã chỉ được 49 phần trăm số phiếu bầu phổ thông, và chỉ 63
ghế. Tất cả đã đều bị tranh giành bởi MDC, những người đã được mọi ghế ở
thủ đô, Harare. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2002, Mugabe đã chỉ
vét được 56 phần trăm phiếu bầu. Cả hai lần bầu cử đã xảy ra theo cách
tốt nhất của ZANU-PF bởi vì bạo lực và sự đe dọa, cùng với gian lận bầu
cử.
Phản ứng của Mugabe đối với sự tan vỡ kiểm soát chính trị của ông đã
là tăng cường cả đàn áp lẫn sử dụng các chính sách của chính phủ để mua
sự ủng hộ.
Cái đã xảy ra ở Zimbabwe sau 1980 đã là chuyện tầm thường ở châu Phi
hạ-Sahara từ khi độc lập. Zimbabwe đã kế thừa một tập các thể chế chính
trị và kinh tế hết sức chiếm đoạt trong năm 1980. Trong thập niên rưỡi
đầu tiên, các thể chế này đã được duy trì tương đối nguyên vẹn.
Các quốc gia thất bại ngày nay bởi vì các thể chế kinh tế chiếm đoạt
của họ đã không tạo ra các khuyến khích cần cho người dân để tiết kiệm,
đầu tư, và đổi mới. Các thể chế chính trị chiếm đoạt ủng hộ các thể chế
kinh tế này bằng cách thắt chặt quyền lực của những người hưởng lợi từ
sự chiếm đoạt. Trong một số trường hợp cực đoan, như ở Zimbabwe và
Sierra Leone, mà chúng ta thảo luận tiếp sau, các thể chế chiếm đoạt mở
đường cho sự thất bại nhà nước hoàn toàn, phá hủy không chỉ luật và trật
tự mà thậm chí cả các khuyến khích kinh tế cơ bản nhất. Kết quả là sự
đình trệ kinh tế và – như lịch sử gần đây của Angola, Cameroon, Chad,
Cộng hòa Dân chủ Congo, Haiti, Liberia, Nepal, Sierra Leone, Sudan, và
Zimbabwe minh họa – các cuộc nội chiến, những sự dời chỗ hàng loạt, và
các bệnh dịch, làm cho nhiều trong các nước này ngày nay nghèo hơn họ đã
là trong các năm 1960.
MỘT CUỘC THẬP TỰ CHINH CỦA TRẺ CON?
Ngày 23 tháng Ba, 1991, một nhóm người được vũ trang dưới sự lãnh đạo
của Foday Sankoh đã từ Liberia vào Sierra Leone và đã tấn công
Kailahun. Nhóm của Sankok tự gọi là RUF, Revolutionary United Front (Mặt
trận Thống nhất Cách mạng), đã tuyên bố rằng họ ở đó để lật đổ chính
phủ APC tham nhũng và bạo ngược.
Năm 1985, khi Stevens bị bệnh, đưa Joseph Momoh thay ông ta, nền kinh
tế đang sụp đổ. Vào cuối sự cai trị của Momoh ông đã ngừng trả lương
các công chức, các giáo viên và thậm chí các Thủ lĩnh Tối cao. Chính phủ
trung ương đã sụp đổ, và sau đó tất nhiên đã có các cuộc xâm nhập biên
giới, Sự sụp đổ của nhà nước dưới thời Momoh, một lần nữa lại là một hệ
quả của vòng luẩn quẩn được tháo ra bởi các thể chế chiếm đoạt cực đoan
dưới thời Stevens, có nghĩa rằng đã chẳng có gì chặn RUF vượt qua biên
giới trong năm 1991.
Mặc dù Sankoh và các lãnh đạo khác của RUF đã có thể bắt đầu với
những lời trách móc chính trị, và những bất bình của nhân dân chịu đau
khổ dưới các thể chế chiếm đoạt của APC đã có thể khuyến khích họ để gia
nhập phong trào lúc ban đầu, tình hình đã thay đổi nhanh chóng và đã
tuột khỏi sự kiểm soát. “Sứ mạng” của RUF đã đẩy nước này vào sự thống
khổ.
Trong năm đầu tiên của sự xâm lấn, bất cứ gốc rễ trí tuệ nào, mà RUF
đã có thể có, đã hoàn toàn tiêu tan. Sankoh đã hành quyết những người
phê phán trào lưu gia tăng của các hành động tàn bạo. Không lâu sau, ít
người đã tự nguyện tham gia RUF. Thay vào đó họ đã chuyển sang tuyển mộ
bằng vũ lực, đặc biệt tuyển mộ trẻ em. Quả thực, tất cả các bên đã làm
việc này, kể cả quân đội. Nếu nội chiến Sierra Leone đã là một cuộc thập
tự chinh để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, cuối cùng nó đã là một
cuộc thập tự chinh của trẻ em. Cuộc xung đột đã mãnh liệt thêm với các
cuộc tàn sát và những sự lạm dụng quyền con người hàng loạt, Khi RUF
tiếp quản các vùng, họ cũng đã tiến hành bóc lột kinh tế. Ðã hầu như
hiển nhiên trong các vùng khai mỏ kim cương, nơi họ đã ép kéo bọn người
dân vào khai mỏ kim cương, nhưng cũng đã phổ biến cả ở nơi khác nữa.
Vào năm 1991 nhà nước ở Sierra Leone đã hoàn toàn thất bại.
Các thể chế chiếm đoạt đã tước đoạt và bần cùng hóa nhân dân và ngăn
chặn sự phát triển kinh tế, là khá phổ biến ở châu Phi, châu Á, và Nam
Mỹ. Hình mẫu của các thể chế chiếm đoạt suy sụp thành nội chiến và sự
thất bại nhà nước đã xảy ra tại những nơi khác ở châu Phi; thí dụ, ở
Angola, Côte d’Ivoire, Cộng hòa Dân chủ Congo, Mozambique, Cộng hòa
Congo, Somalia, Sudan, và Uganda. Sự chiếm đoạt mở đường cho xung đột,
không phải không giống xung đột mà các thể chế hết sức chiếm đoạt của
các thành-quốc Maya đã gây ra gần một ngàn năm trước. Cuộc xung đột đã
đẩy nhanh sự thất bại nhà nước. Cho nên một lý do khác nữa vì sao các
quốc gia thất bại ngày nay là, các nhà nước của họ thất bại. Việc này,
đến lượt, là một hệ quả của hàng thập niên của sự cai trị dưới các thể
chế kinh tế và chính trị chiếm đoạt.
AI LÀ NHÀ NƯỚC?
Các trường hợp của Zimbabwe, Somalia, và Sierra Leone, cho dù là điển
hình của các nước nghèo ở châu Phi, và có lẽ thậm chí một số trường hợp
ở châu Á, có vẻ khá cực đoan. Có chắc chắn các nước Mỹ Latin không có
các nhà nước thất bại? Có chắc chắn các tổng thống của họ không đủ trơ
tráo để trúng xổ số?
Trong năm mươi năm vừa qua, Colombia đã được hầu hết các nhà khoa học
chính trị và các chính phủ coi như một nền dân chủ. Sau một chính phủ
quân sự ngắn ngủi đã chấm dứt trong năm 1958, các cuộc bầu cử đã được tổ
chức thường xuyên. Năm 1974 một hiệp ước luân phiên quyền lực chính trị
và chức tổng thống giữa hai đảng chính trị truyền thống, Bảo thủ và Tự
do. Tuy nhiên trong khi Colombia có một lịch sử dài của các cuộc bầu cử
dân chủ, nó không có các thể chế dung hợp. Thay vào đó, lịch sử của nó
đã bị làm hại bởi những sự vi phạm quyền tự do dân sự, những sự hành
quyết không đưa ra tòa xét xử, bạo lực chống lại thường dân, và nội
chiến. Nội chiến ở Colombia gây ra nhiều thương vong hơn nhiều. Sự cai
trị quân sự của các năm 1950 bản thân nó một phần đã là sự phản ứng lại
đối với một cuộc nội chiến được biết đến trong tiếng Tây Ban Nha đơn
giản như La Violencia, hay “Bạo lực.” Từ thời đó quả thực là
một dãy các nhóm nổi dậy, hầu hết là các nhà cách mạng cộng sản, đã gây
tai họa cho vùng nông thôn, bắt cóc và giết người.
Vào năm 1997 các lực lượng nửa quân sự, dưới sự lãnh đạo của anh em
nhà Castaño, đã tìm được cách để thành lập một tổ chức quốc gia cho các
lực lượng nửa quân sự, được gọi là Autodefensas Unidas de Colombia
(AUC–Các Lực lượng Tự bảo vệ Thống nhất Colombia). AUC đã mở rộng ra các
phần lớn của nước này, AUC đã điều hành các vùng lớn của Colombia, và
để ấn định ai được bầu trong các cuộc bầu cử năm 2002 cho Hạ viện và
Thượng viện.
Colombia không phải là một trường hợp của một nhà nước thất bại sắp
sụp đổ. Nhưng nó là một nhà nước mà không có sự tập trung hóa đủ và với
quyền lực còn xa mới đầy đủ trên toàn lãnh thổ. Ðã có thể là khó để hiểu
làm sao mà một tình hình giống thế này lại có thể tự duy trì trong hàng
thập kỷ, thậm chí thế kỷ. Nhưng thực ra, tình hình có một logic riêng
của nó, như một loại vòng luẩn quẩn. Bạo lực và sự thiếu các thể chế nhà
nước được tập trung hóa thuộc loại này đã tham dự vào một mối quan hệ
cộng sinh với các chính trị gia vận hành các phần chức năng của xã hội.
Mối quan hệ cộng sinh nổi lên bởi vì các nhà chính trị quốc gia khai
thác tính vô luật pháp của các phần ngoại vi của đất nước, trong khi các
nhóm nửa quân sự được chính phủ quốc gia để cho tự tung tự tác.
Trong năm 2002 Álvaro Uribe đã thắng cuộc bầu tổng thống. Uribe đã có
cái gì đó chung với anh em nhà Castaño: bố ông đã bị FARC giết. Uribe
đã điều khiển một chiến dịch bác bỏ các nỗ lực của chính quyền trước để
thử hòa giải với FARC. Trong năm 2006, khi ông được bầu lại, phần phiếu
bầu của ông đã cao hơn 11 phần trăm
Ở Colombia nhiều khía cạnh của các thể chế kinh tế và chính trị đã
trở nên dung hợp hơn theo thời gian. Nhưng các yếu tố chiếm đoạt chủ yếu
nhất định vẫn còn. Tình trạng vô luật pháp và các quyền tài sản không
an toàn là các căn bệnh địa phương trong các dải lớn của nước này, và
đấy là một hệ quả của sự thiếu kiểm soát bởi nhà nước quốc gia ở nhiều
phần của đất nước, và dạng đặc biệt của sự thiếu tập trung hóa nhà nước.
Nhưng tình trạng này không phải là một kết quả không thể tránh khỏi.
Bản thân nó là một hệ quả của động học phản chiếu vòng luẩn quẩn: các
thể chế chính trị ở Colombia không tạo ra các khuyến khích cho các nhà
chính trị để cung cấp các dịch vụ công và luật pháp và trật tự trong
phần lớn của đất nước và không đặt ra đủ các ràng buộc lên họ để ngăn
chặn họ tham gia vào các thỏa thuận ngầm hay tường minh với các lực
lượng nửa quân sự và những kẻ ác ôn.
EL CORRALITO
Argentina đã ở trong sự o ép của một cuộc khủng hoảng kinh tế vào
cuối năm 2001, dưới thời chính phủ Carlos Menem. Năm 1991 Menem đã neo
đồng peso Argentina vào đồng USD. Theo luật, một peso bằng một dollar.
Nó đã làm cho hàng xuất khẩu đắt và hàng nhập khẩu rẻ. Đã xẩy ra sự rối
loạn tài chính.
Ngày 1 tháng Mười Hai, 2001, chính phủ đã đóng băng tất các các tài
khoản ngân hàng. Chỉ một khoản tiền mặt nhỏ được cho phép rút hàng tuần.
Ðầu tiên là 250 pesos, vẫn có giá trị 250 $; rồi 300 pesos. Những người
Argentina đã gọi tình trạng này là El Corralito, “Bãi Quây Nhỏ”: những
người gửi tiền bị bao vây vào một bãi quây giống như những con bò. Trong
tháng Giêng việc phá giá cuối cùng đã được ban hành, và thay cho một
peso ăn một dollar, chẳng bao lâu đã là bốn peso cho một dollar. Nhưng
chính phủ sau đó đã chuyển đổi bằng vũ lực tất cả các tài khoản dollar ở
ngân hàng sang peso, nhưng với tỷ giá hối đoái cũ một-ăn-một. Ai đã có
khoản tiết kiệm 1.000 $ đột ngột thấy mình chỉ còn 250 $. Chính phủ đã
tước đoạt ba phần tư các khoản tiết kiệm của nhân dân.
Vào khoảng thời gian của Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, Argentina
đã là một trong những nước giàu nhất thế giới. Sau đó nó đã bắt đầu một
sự sa sút đều đặn tương đối so với các nước giàu khác ở Tây Âu và Bắc
Mỹ, rồi trong các năm 1970 và 1980 đã chuyển sang một sự suy sụp tuyệt
đối. Trên bề mặt của nó, thành tích kinh tế của Argentina là khó hiểu và
gây bối rối, nhưng các lý do cho sự sa sút của nó trở nên rõ ràng hơn
nếu được nhìn qua lăng kính của các thể chế dung hợp và chiếm đoạt.
Ðúng là trước 1914, Argentina đã trải qua khoảng năm mươi năm tăng
trưởng kinh tế, nhưng đấy đã là một trường hợp kinh điển của sự tăng
trưởng dưới các thể chế chiếm đoạt. Argentina sau đó đã bị cai trị bởi
một elite hẹp đầu tư rất nhiều vào nền kinh tế xuất khẩu nông nghiệp. Nó
đã không kéo theo sự phá hủy có tính sáng tạo và sự đổi mới nào. Và nó
đã không bền vững. Trước 1983, Argentina đã giao động lùi và tiến giữa
chế độ độc tài và nền dân chủ và giữa các thể chế chiếm đoạt khác nhau.
Ðã có sự đàn áp hàng loạt dưới sự cai trị quân sự, đỉnh điểm trong các
năm 1970 với ít nhất chín ngàn người bị hành quyết và có lẽ còn nhiều
người hơn đã bị hành quyết một cách bất hợp pháp. Hàng trăm ngàn người
đã bị tù đày và bị tra tấn.
Các cuộc bầu cử đã không mang lại hoặc các thể chế chính trị dung hợp
hay các thể chế kinh tế dung hợp là điển hình ở Mỹ Latin. Ở Colombia,
các lực lượng nửa quân sự có thể cố định một phần ba các cuộc bầu cử
quốc gia. Ở Venezuela ngày nay, chính phủ được bầu một cách dân chủ của
Hugo Chávez tấn công các đối thủ của nó, đuổi họ khỏi các việc làm khu
vực công, đóng cửa các tờ báo mà các bài xã luận nó không thích, và tước
đoạt tài sản. Trong bất cứ việc gì ông ta làm, Chávez hùng mạnh hơn
nhiều và ít bị kiềm chế hơn nhiều
Thay vào đó, nhiều người Argentinia và Venezuela nhận ra rằng tất cả
các chính trị gia khác và các đảng của họ cho đến nay đã không để cho họ
có tiếng nói, đã không cung cấp cho họ các dịch vụ công cơ bản nhất,
như đường sá và giáo dục, và đã không bảo vệ họ khỏi sự bóc lột bởi các
elite địa phương. Rất nhiều người Venezuela ngày nay ủng hộ các chính
sách của Chávez cho dù những chính sách này đi cùng với tham nhũng và
lãng phí theo cùng cách mà nhiều người Argentinia đã ủng hộ các chính
sách của Perón trong các năm 1940 và 1970. Thứ hai, lại chính các thể
chế chiếm đoạt cơ bản là những cái làm cho chính trị hấp dẫn đến như vậy
đối với, và thiên vị đến như vậy cho, những kẻ mạnh mẽ như Perón và
Chávez, hơn là một hệ thống đảng hiệu quả tạo ra các lựa chọn khả dĩ
khác đáng mong mỏi về mặt xã hội. Perón, Chávez, và hàng tá những kẻ
mạnh mẽ ở Mỹ Latin chỉ là một mặt, một khía cạnh khác nữa của quy luật
sắt của chính thể đầu sỏ, và như cái tên gợi ý, gốc rễ của quy luật sắt
này nằm trong các chế độ do elite kiểm soát nằm ở dưới.
CHÍNH THỂ CHUYÊN CHẾ MỚI
Tháng Mười Một 2009, chính phủ Bắc Triều Tiên đã thực hiện cái mà các
nhà kinh tế học gọi là một cải cách tiền tệ. Những đợt lạm phát nghiêm
trọng thường là lý do cho những cải cách như vậy. Ở Pháp trong tháng
Giêng 1960, một cuộc cải cách tiền tệ đã đưa vào đồng franc mới bằng 100
đồng franc hiện tồn. Các đồng franc cũ vẫn tiếp tục được lưu thông và
người dân thậm chí vẫn ghi giá bằng đồng tiền cũ vì sự thay đổi sang
đồng franc mới đã là từ từ. Cuối cùng, các đồng franc cũ đã ngừng là
đồng tiền pháp định trong tháng Giêng 2002, khi Pháp đưa vào đồng euro.
Cải cách của Bắc Triều Tiên nhìn giống thế về bề ngoài của nó. Giống
những người Pháp trong năm 1960, chính phủ Bắc Triều Tiên đã quyết định
bỏ bớt hai số không khỏi đồng tiền. Một tờ một trăm won, đồng tiền Bắc
Triều Tiên cũ, đã có giá trị một won mới. Các cá nhân đã được phép đổi
tiền của của họ lấy tiền được in mới tinh, mặc dù việc này đã phải tiến
hành trong một tuần lễ, hơn là bốn mươi hai năm, như trong trường hợp
của Pháp. Rồi đến cú chộp: chính phủ tuyên bố rằng không ai có thể đổi
nhiều hơn 100.000 won, mặc dù muộn hơn nó đã nới giới hạn này lên
500.000. Một trăm ngàn won đã là khoảng 40 $ theo giá ngoại hối chợ đen.
Bằng một cú đánh, chính phủ đã quét sạch của cải riêng tư của một phần
rất lớn các công dân Bắc Triều Tiên; chúng ta không biết chính xác bao
nhiêu, nhưng có lẽ lớn hơn mức mà chính phủ Argentina đã tước đoạt trong
năm 2002.
Chính phủ ở Bắc Triều Tiên là một chế độ độc tài cộng sản đã chống lại quyền sở hữu tư nhân và các thị trường.
Chủ nghĩa cộng sản Nga đã dã man, đàn áp, và đẫm máu, nhưng không độc
nhất. Các hậu quả kinh tế và sự đau khổ con người đã là khá điển hình
của cái đã xảy ra ở nơi khác – chẳng hạn, ở Cambodia trong các năm 1970
dưới thời Khmer Ðỏ, ở Trung Quốc, và ở Bắc Triều Tiên. Trong tất cả các
trường hợp chủ nghĩa cộng sản đã mang lại các chế độ độc tài tàn ác và
những sự lạm dụng các quyền con người phổ biến. Vượt xa hơn sự đau khổ
con người và sự chém giết, tất cả các chế độ cộng sản đã dựng lên các
loại khác nhau của các thể chế chiếm đoạt. Các thể chế kinh tế, có hay
không có các thị trường, đã được thiết kế để khai thác các nguồn lực từ
nhân dân, và bằng cách hoàn toàn căm ghét các quyền tài sản, chúng
thường đã tạo ra sự nghèo khó thay cho sự thịnh vượng. Trong trường hợp
Soviet, như chúng ta đã thấy ở chương 5, hệ thống Cộng sản đầu tiên đã
tạo ra sự tăng trưởng nhanh, nhưng sau đó đã loạng choạng và dẫn đến trì
trệ. Các hậu quả đã tàn phá hơn rất nhiều ở Trung Quốc dưới thời Mao, ở
Cambodia dưới thời Khmer Ðỏ, và ở Bắc Triều Tiên, nơi các thể chế kinh
tế Cộng sản đã dẫn đến sự sụp đổ kinh tế và nạn đói.
Các thể chế kinh tế Cộng sản đến lượt đã được ủng hộ bởi các thể chế
chính trị chiếm đoạt, tập trung mọi quyền lực vào tay của các Ðảng Cộng
Sản và không đưa ra bất cứ sự ràng buộc nào lên việc sử dụng quyền lực
này. Mặc dù về hình thức đấy đã là các thể chế chiếm đoạt khác nhau,
chúng đã có các kết quả giống nhau lên kế sinh nhai của nhân dân như các
thể chế tại Zimbabwe và Sierra Leone.
VUA BÔNG
Bông chiếm khoảng 45 phần trăm xuất khẩu của Uzbekistan, làm cho nó
trở thành cây trồng quan trọng nhất kể từ khi nước này xác lập sự độc
lập vào lúc tan rã của Liên Xô trong năm 1991. Dưới thời chủ nghĩa cộng
sản Soviet tất cả đất trồng bông ở Uzbekistan đã dưới sự kiểm soát của
2.048 nông trang do nhà nước sở hữu. Các nông trang này bị phá vỡ và đất
được chia lại sau 1991.
Bông đã quá có giá trị cho chính phủ mới của Uzbekistan, trước hết,
và cho đến nay duy nhất, cho tổng thống, Ismail Karimov. Vụ thu hoạch
kéo dài hai tháng. Trẻ em phải nghỉ học để tham gia thu hoạch bông.
Những người hưởng lợi chính từ tất cả lao động cưỡng bức này là các
elite chính trị, đứng đầu bởi Tổng thống Karimov, ông vua de facto (thực sự) của tất cả bông ở Uzbekistan.
Làm sao mà tất cả đã đến nông nỗi này? Uzbekistan, giống các Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Soviet khác, đã được cho là nhận được sự độc lập của
mình sau sự sụp đổ của Liên Xô và phát triển một nền kinh tế thị trường
và nền dân chủ. Như trong nhiều nước Cộng hòa Soviet, tuy vậy điều này
đã không diễn ra. Tổng thống Karimov, người đã bắt đầu sự nghiệp chính
trị của mình trong Ðảng Cộng Sản Liên Xô cũ, leo lên đến chức bí thư thứ
nhất Uzbekistan vào thời điểm may mắn của năm 1989, đúng khi Bức tường
Berlin sụp đổ, đã xoay xở để tái tạo chính mình với tư cách một nhà dân
tộc chủ nghĩa. Với sự ủng hộ quyết định của các lực lượng an ninh, trong
tháng Mười Hai năm 1991 ông đã thắng cuộc bầu cử Tổng thống đầu tiên
chưa từng có của Uzbekistan. Sau khi nắm quyền lực, ông đã đàn áp thẳng
tay phe đối lập chính trị độc lập. Các đối thủ bây giờ ở trong nhà tù
hay sống lưu đày. Không có nền báo chí tự do ở Uzbekistan, và không có
tổ chức phi chính phủ nào được cho phép. Ðỉnh điểm của sự tăng cường đàn
áp đến vào năm 2005, khi có lẽ 750, có thể nhiều hơn, những người biểu
tình bị cảnh sát và quân đội sát hại ở Andijon.
Dưới thời Karimov, Uzbekistan là một nước với các thể chế chính trị
và kinh tế rất chiếm đoạt Và nó nghèo. Không phải tất cả các chỉ số phát
triển là xấu. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ trẻ em đến
trường là 100 phần trăm … phải, có lẽ trừ trong thời vụ hái bông. Tỷ lệ
biết đọc biết viết cũng rất cao, mặc dù ngoài việc kiểm soát tất cả báo
chí, chế độ cũng cấm sách và kiểm duyệt Internet. Trong khi hầu hết nhân
dân được trả chỉ vài cent cho một ngày hái bông, gia đình Karimov và
các cán bộ cộng sản trước kia, những người đã tái tạo bản thân mình sau
1989 như các elite kinh tế và chính trị mới của Uzbekistan, đã trở nên
giàu có một cách cực kỳ thoải mái.
Uzbekistan theo nhiều cách giống một di tích từ quá khứ, một thời đại
đã bị bỏ quên. Một nước tiều tụy dưới chính thể chuyên chế của một gia
đình duy nhất và những cánh hẩu xung quanh họ, với một nền kinh tế dựa
trên lao động cưỡng bức – thực ra, lao động cưỡng bức của các trẻ em.
Trừ điểm đó nó đã không phải là [di tích]. Phần của nó của miếng khảm
(mosaic) của các xã hội thất bại dưới các thể chế chiếm đoạt, và đáng
tiếc nó có nhiều nét chung với các nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Soviet
trước kia, trải từ Armenia và Azerbaijan đến Kyrgyzstan, Tajikistan, và
Turkmenistan, và nhắc nhở chúng ta rằng ngay cả trong thế kỷ thứ hai
mươi mốt, các thể chế kinh tế và chính trị chiếm đoạt có thể khoác một
dạng tàn bạo vô liêm sỉ.
GIỮ SÂN CHƠI NGHIÊNG
Các năm 1990 đã là một thời kỳ cải cách ở Ai Cập. Từ cuộc đảo chính
quân sự xóa bỏ nền quân chủ trong năm 1954, Ai Cập đã được vận hành như
một xã hội nửa-xã hội chủ nghĩa trong đó chính phủ đã đóng một vai trò
trung tâm trong nền kinh tế. Thế nhưng đấy đã không là các thị trường
dung hợp, mà là các thị trường được kiểm soát bởi nhà nước và một nhúm
nhỏ các nhà kinh doanh liên minh với Ðảng Dân chủ Dân tộc (National
Democratic Party – NDP),
. Các doanh nhân có mối quan hệ với chế độ đã có khả năng ảnh hưởng
mạnh mẽ đến việc thực hiện chương trình tư nhân hóa của Ai Cập, sao cho
nó ưu ái cho elite kinh doanh giàu có – hay “những con cá voi,” như họ
được biết đến ở địa phương. Vào lúc tư nhân hóa bắt đầu, nền kinh tế đã
bị chi phối bởi ba mươi hai trong số cá voi này.
Ai Cập ngày nay là một quốc gia nghèo – không nghèo như hầu hết các
nước ở phía nam, ở châu Phi hạ-Sahara, nhưng vẫn là một quốc gia nghèo
nơi khoảng 40 phần trăm dân số là rất nghèo và sống với ít hơn hai
dollar một ngày. Các thể chế kinh tế chiếm đoạt đã lại được ủng hộ bởi
các thể chế chính trị chiếm đoạt.
Kết quả không thể tránh khỏi, mà đã đến trong triều đại của Mubarak,
đã là các thể chế kinh tế trở nên chiếm đoạt hơn, phản ánh sự phân bố
quyền lực chính trị trong xã hội. Theo nghĩa nào đó Mùa Xuân Arab đã là
một phản ứng với việc này. Ðiều này đã đúng không chỉ ở Ai Cập mà cũng ở
Tunisia. Ba thập niên của sự tăng trưởng Tunisia dưới các thể chế chính
trị chiếm đoạt đã bắt đầu quay ngược khi Tổng thống Ben Ali và gia đình
ông đã bắt đầu cướp bóc nền kinh tế nhiều hơn và mạnh hơn.
VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Các quốc gia thất bại về kinh tế bởi vì các thể chế chiếm đoạt. Các
thể chế này giữ các nước nghèo ở trạng thái nghèo và ngăn cản chúng bước
lên con đường đến tăng trưởng kinh tế. Ðiều này đúng ngày nay ở châu
Phi, ở các nơi như Zimbabwe và Sierra Leone; ở Nam Mỹ, trong các nước
như Colombia và Argentina; ở châu Á, trong các nước như Bắc Triều Tiên
và Uzbekistan; và ở Trung Ðông, trong các quốc gia như Ai Cập. Có những
sự khác biệt đáng kể giữa các nước này. Một số là các nước nhiệt đới,
một số trong các vùng ôn đới. Một số đã là các thuộc địa của Anh; số
khác đã là thuộc địa của Nhật Bản, Tây Ban Nha, và Nga. Chúng có các
lịch sử, ngôn ngữ, và văn hóa rất khác nhau. Cái tất cả chúng cùng chia
sẻ là các thể chế chiếm đoạt. Trong tất cả các trường hợp này cơ sở của
các thể chế này là một giới elite những người thiết kế các thể chế kinh
tế để làm giàu cho bản thân họ và làm cho quyền lực của họ là vĩnh viễn
gây tổn hại cho tuyệt đại đa số người dân trong xã hội. Lịch sử và cấu
trúc xã hội khác nhau của các nước dẫn đến những sự khác biệt về bản
chất của các elite và về chi tiết của các thể chế chiếm đoạt. Nhưng lý
do vì sao các thể chế tồn tại dai dẳng luôn luôn liên quan đến vòng luẩn
quẩn, và những hệ lụy của các thể chế này về mặt bần cùng hóa các công
dân của chúng là giống nhau – cho dù cường độ của chúng khác nhau.
Ðúng như lịch sử và các cấu trúc khác nhau có nghĩa rằng bản sắc của
các elite và những chi tiết của các thể chế chính trị chiếm đoạt là khác
nhau, các chi tiết của các thể chế kinh tế chiếm đoạt mà các elite dựng
lên cũng thế.
Mức độ chiếm đoạt trong các nước khác nhau rõ ràng thay đổi và có
những hệ quả quan trọng cho sự thịnh vượng. Tại Argentina, chẳng hạn,
hiến pháp và các cuộc bầu cử dân chủ không hoạt động tốt để thúc đẩy chủ
nghĩa đa nguyên, nhưng chúng có hoạt động tốt hơn nhiều so với ở
Colombia. Chí ít nhà nước có thể xác nhận mình có độc quyền về bạo lực ở
Argentina. Một phần như một hệ quả, thu nhập trên đầu người ở Argentina
gấp đôi thu nhập đầu người của Colombia. Các thể chế chính trị của cả
hai nước làm công việc tốt hơn nhiều để kiềm chế các elite so với các
thể chế chính trị ở Zimbabwe và Sierra Leone, và như một kết quả,
Zimbabwe và Sierra Leone nghèo hơn Argentina và Colombia rất nhiều.
Giải pháp cho sự thất bại kinh tế và chính trị của các quốc gia ngày
nay là biến đổi các thể chế chiếm đoạt của họ hướng về các thể chế dung
hợp. Vòng luẩn quẩn có nghĩa rằng việc này không dễ. Nhưng không phải là
không thể, và quy luật sắt của chính thể đầu sỏ không phải là không thể
tránh khỏi. Hoặc một số yếu tố bao gồm tồn tại từ trước trong các thể
chế, hay sự hiện diện của các liên minh rộng dẫn đến cuộc đấu tranh
chống chế độ hiện tồn, hay đơn thuần bản chất tùy thuộc ngẫu nhiên của
lịch sử, có thể phá vỡ các vòng luẩn quẩn. Hệt như nội chiến tại Sierra
Leone, Cách mạng Vinh quang năm 1688 đã là một cuộc đấu tranh vì quyền
lực. Nhưng nó đã là một cuộc đấu tranh có bản chất rất khác với nội
chiến ở Sierra Leone. Có thể hiểu được rằng một số người trong Quốc hội
chiến đấu để loại bỏ James II theo sau Cách mạng Vinh quang đã tưởng
tượng mình đóng vai trò của nhà chuyên chế mới, như Oliver Cromwell đã
đóng sau Nội Chiến Anh. Nhưng sự thực rằng quốc hội đã hùng mạnh rồi và
đã cấu thành từ một liên minh rộng của các lợi ích kinh tế khác nhau và
các quan điểm khác nhau đã làm cho quy luật sắt của chính thể đầu sỏ ít
có khả năng áp dụng trong năm 1688. Và nó đã được giúp đỡ bởi sự thực
rằng sự may mắn đã ở bên của Quốc hội chống lại James II. Trong chương
tiếp theo, chúng ta sẽ thấy các thí dụ khác nữa về các nước đã tìm được
cách để phá vỡ vòng kim cô và biến đổi các thể chế của họ cho cái tốt
đẹp hơn, thậm chí sau một lịch sử dài của các thể chế chiếm đoạt.
(Còn tiếp)