Thể chế cản trở sự phát triển của thị trường đất nông nghiệp Việt Nam (Trung Khang, RFA)
Chế độ cộng sản không thừa nhận "tư hữu đất đai" mà tất cả là "của toàn dân nhưng do nhà nước độc quyền quản lý" nên nông nghiệp Việt Nam không thể nào phát triển. Không chỉ nông nghiệp mà tất cả các lĩnh vực khác cũng thế thôi.
Báo cáo mới được công bố hôm 15/11 của Viện Chính sách và Chiến lược
phát triển nông nghiệp nông thôn - IPSARD cho thấy các rào cản thể chế
ảnh hưởng tới sự phát triển của thị trường đất nông nghiệp Việt Nam, cản
trở phát triển sản xuất nông nghiệp.
Đất đai nông nghiệp bị phân tán thành nhiều mảnh
Theo báo cáo của IPSARD, do lịch sử và thói quen canh tác, đất đai
nông nghiệp ở Việt Nam bị phân tán thành nhiều mảnh, manh mún cản trở
cho việc áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, thúc đẩy sản xuất hàng
hóa và nâng cao chất lượng nông nghiệp… Gây khó khăn cho các doanh
nghiệp trong việc thu gom đất, không thu hút được doanh nghiệp đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp, vì gặp nhiều trở ngại trong các giao dịch
chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do về vấn đề này, Tiến sĩ Đặng Kim Sơn,
nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp
Nông thôn cũng cho rằng, cản trở phát triển nông nghiệp Việt Nam là vấn
đề manh mún và đất đai nhỏ lẻ. Ngoài ra, khi tiến lên công nghiệp hóa và
đô thị hóa thì việc rút lao động ra khỏi nông thôn là tương đối chậm,
do đó vẫn còn gần 48% lao động làm trong ngành nông nghiệp, vì thế đất
phải chia nhỏ cho lao động làm việc ở nông thôn. Ông nói tiếp:
“Trung bình mỗi hộ khoảng 0,6 hecta, đây là tỷ lệ thấp nhất trong
vùng, ít nước thấp như thế. Đặc biệt ở miền trung và miền bắc Việt Nam,
còn chia làm nhiều mảnh nữa, một nhà có 4, 5 hay 7 mảnh. Cho nên quy mô
lô ruộng còn nhỏ hơn rất nhiều. Quy mô nhỏ sẽ cản trở thủy lợi hóa, cơ
giới hóa, cản trở áp dụng khoa học công nghệ. Đây là một trong những yếu
tố lớn cản trở hình thành hợp tác xã hay liên kết với doanh nghiệp để
sản xuất lớn.”
Theo Chỉ số Phát triển Thế giới –WDI do Ngân Hàng Thế Giới – WTO công
bố năm 2017, tỷ lệ đất nông nghiệp chia theo đầu người ở Việt Nam rất
nhỏ, chỉ đạt bình quân 0,07 hecta mỗi người, thấp hơn nhiều so với tỷ
lệ 0,27 hecta mỗi người tại Thái Lan. Ngoài ra, tỷ lệ mảnh đất bình quân
mỗi hộ nông dân còn ở mức khá cao, với cây hàng năm là 3,1 mảnh đất
trên một hộ gia đình.
Theo Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn,
Việt Nam hiện có gần 14 triệu hộ nông dân đang sở hữu 78 triệu mảng
ruộng nhỏ lẻ, quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất diễn ra khá chậm,
vẫn còn hơn 70% mảnh đất sản xuất nông nghiệp có diện tích dưới 0,5ha.
Đài Á Châu Tự Do liên lạc với Anh Nguyễn Tiến Lựa, một người trồng
lúa ở Bắc Giang, để tìm hiểu về thực tế trồng lúa tại địa phương, và
được anh cho biết như sau:
“Cái này nó cũng tùy thuộc, nếu mà đủ điều kiện làm hợp tác xã hay
cánh đồng lớn, thì mình làm… phát triển xã hội mà mở mang ra thì tốt.
Như bọn tôi thì hiện nay chỉ làm nhùng nhằng mấy xào ruộng, kiếm mấy hạy
thóc thôi. Nói ra thì cũng khó lắm, trong cái việc của mình, nhiều cái
mình lực bất tòng tâm. Làm lớn không được thì làm nhỏ lẻ, chứ lật đi
xong không lật lại được thì khó khăn lắm.”
Luật Đất đai không hợp lý
Luật Đất đai 2013 quy định người dân chỉ có quyền sử dụng đất với
thời hạn 50 năm với các qui định về hạn điền. Cụ thể khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long mỗi hộ chỉ được sở hữu tối đa 3 hecta và ngoài Đồng bằng
sông Cửu Long là 2 hecta.
Giáo sư Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
Việt Nam, cho rằng, một trong những rào cản thể chế, làm kéo dài tình
trạng đất nông nghiệp manh mún nhỏ lẻ, ảnh hưởng sự phát triển của thị
trường đất nông nghiệp Việt Nam là vấn đề hạn điền:
“Câu chuyện hạn điền thì không hạn chế đối với doanh nghiệp nhưng
lại hạn chế đối với hộ gia đình nông dân muốn có một quỹ đất lớn hơn để
có thể phát triển quy mô lớn thì lại vướn phải hạn điền. Mặc dù hiện nay
đã tháo gỡ một phần nhưng vẫn không vượt quá 10 lần hạn mức giao đất
của nhà nước. Mà hạn mức trước đây ở Đồng bằng sông Cửu Long là 3 hecta
và ngoài Đồng bằng sông Cửu Long là 2 hecta, như vậy là 20 hecta và 30
hecta.”
Giải thích thêm về tình trạng đất đai chia đều theo quy mô nhỏ lẻ và vấn đề hạn điền, Tiến sĩ Đặng Kim Sơn cho biết:
“Giai đoạn cải cách ruông đất hay còn gọi là cải cách điền địa,
tức là chia đất của địa chủ lại cho người nông dân, người ta lấy đất của
địa chủ chia cho nông dân, một mặt xóa bỏ được việc người nọ bóc lột
người kia, có người có người có rất nhiều đất, có người phải đi làm
thuê, nó cải thiện được tình trạng đó. Nhưng điều này lại nảy sinh tình
trạng đất chia đều nhưng quy mô nhỏ lẻ.”
Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam được Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa thực hiện vào những năm 1953–1956, nhằm xóa bỏ văn hóa
phong kiến, địa chủ, cường hào... với mục tiêu xoá bỏ chế độ phong kiến
chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, lấy đất địa chủ chia cho nông
dân, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân.
Tiến sĩ Đặng Kim Sơn cho rằng, khi kinh tế phát triển thì người làm
giỏi có xu hướng tăng quy mô đất lên, còn người làm kém thì bỏ đất đai
sang lao động phi nông nghiệp. Khi quá trình này diễn ra thì xuất hiện
tình trạng tích tụ đất đai để hình thành sản xuất trang trại quy mô lớn
dần. Đến giai đoạn nào đấy các nước từng cải cách ruộng đất bắt đầu bỏ
mức hạn điền, không ngăn chặn quy mô đất đai tối đa của một hộ có thể
mua hoặc chuyển nhượng. Theo ông Việt Nam đã đến lúc cần xóa bỏ hạn
điền.