Hiltler, Quốc xã và bài học cho nước Mỹ (Thắng Đỗ)
Hy vọng nước Mỹ sẽ không như nước Đức quốc xã trước đây vì Mỹ là vùng đất của di dân, của tự do, bình đẳng và bác ái. Trump rồi sẽ qua đi nhưng những gì Trump để lại cho nước Mỹ sẽ rất kinh khủng mà hiện tại nhiều người Mỹ chưa nhận ra. Nước Mỹ không bao giờ còn có thể là nước Mỹ của trước đây nữa, một nước Mỹ bao dung, hiền hòa, tôn trọng mọi khác biệt, là mẫu mực của tự do, là biểu tượng của thế giới dân chủ sau thế chiến Hai. Trump đã đặt dấu chấm hết cho vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ.
Thập niên 1920 và 1930 ở Đức có một
hiện tượng kinh hoàng nhất trong lịch sử loài người: Hitler, đảng Quốc
xã (Nazi) và Đế chế Thứ ba (the Third Reich).
Âu Châu trở thành
một biển lửa, các thành phố tan nát, hàng chục triệu người chết, trong
đó có 6 triệu người Do Thái và các thiểu số khác bị thủ tiêu trong các
lò hơi ngạt của Quốc xã, hàng trăm triệu người trở thành nạn nhân chiến
tranh không nhà cửa.
Chiến tranh lan sang Châu Á và Phi, trở nên
cuộc thế chiến cực kỳ tàn bạo. Sau khi Hitler và chế độ Quốc xã bị hủy
diệt hoàn toàn, phải mất nhiều thập niên để hàn gắn những tàn phá do
chiến tranh gây nên.
Nhân chứng của Đệ tam Đế chế
Albert
Speer là một kiến trúc sư, với vinh dự được coi là 'kiến trúc sư chính
thức' của Đệ tam Đế chế. Xuất thân từ một gia đình thượng lưu, bố là một
kiến trúc sư, ông theo chân bố và lận đận lúc ban đầu như hầu hết các
kiến trúc sư trẻ tuổi khác, cho đến khi tình cờ gặp Hitler lúc 29 tuổi.
Hồi
kí 'Bên Trong Đệ Tam Đế Chế' (Inside the Third Reich) được ông viết sau
chiến tranh khi ở tù Đồng minh, trong đó ông kể không thích đảng Quốc
xã lúc ban đầu, cho rằng họ quá khích, thiên tả và có trình độ văn hóa
thấp, nhưng ông bị cá nhân Hitler lôi cuốn.
Phong cách Hitler,
với một niềm tin chắc nịch, hút ông như nam châm. Ngược lại, Hitler cũng
thấy ở kiến trúc sư trẻ này một tầm nhìn xa hơn các đồng nghiệp lão
thành.
Hitler giao cho Speer một công trình khiêm tốn, và
quan hệ của hai người lập tức trở thành gắn bó. Speer trở thành một
trong vài quan chức thân tín nhất của Hitler, họ thường ăn trưa và tối
với nhau.
Sau khi Hitler nắm quyền, tất cả những công trình quan
trọng nhất được giao cho Speer, kể cả xây lại thành phố Berlin bằng
những dinh thự với kích thước kỉ lục thế giới, cho xứng đáng với tương
lai huy hoàng của nước Đức trong trí tưởng tượng của nhà lãnh tụ.
Chiến
tranh cắt ngang các dự án vĩ đại đó. Cuộc chiến thuận lợi cho Đức lúc
ban đầu và tin chiến thắng từ Ba Lan, Hòa Lan, Bỉ, Pháp, v.v. dồn dập
tuôn về.
Cục diện thay đổi khi Đức bị sa lầy ở mặt trận Nga. Vật liệu và nhân công trở nên khan hiếm.
Là
một đảng viên yêu nước, Speer muốn chuyển tài nguyên từ kiến trúc sang
phục vụ chiến tranh, nhưng Hitler đòi hỏi Speer phải tiếp tục các công
trình đang dở dang. Với Hitler, xây dựng các công trình đồ sộ này để
chứng minh cho sự vĩ đại của chế độ quan trọng hơn cả cuộc chiến đa
diện.
Speer không làm Hitler thất vọng; trong điều kiện thiếu thốn thời chiến, ông vẫn duy trì được tốc độ thi công nhanh chóng.
Nhận
thấy khả năng quản trị và tổ chức siêu việt của Speer, Hitler giao cho
ông đảm nhiệm luôn chức Bộ trưởng Bộ Vũ khí và Sản xuất Chiến tranh.
Speer
trở thành nhân vật quan trọng thứ nhì của chế độ, chỉ sau Hitler, và
vào những tháng cuối cùng của cuộc chiến, ông được coi như người quan
trọng nhất, vì Hitler lúc đó đã gần như bất lực.
Ở đỉnh cao quyền lực, Speer bắt đầu tỉnh thức.
Ông
dần hiểu ra rằng ưu tiên duy nhất của Hitler là duy trì quyền lực của
mình bằng bất cứ giá nào, kể cả với nước Đức thua trận và bị phá hủy
toàn diện. Speer bị tình nghi là đã tham dự vào âm mưu đảo chánh và ám
sát quốc trưởng để cứu nước Đức một năm trước khi tất cả sụp đổ.
Qua
cuốn hồi kí hơn 500 trang, Speer chứng tỏ là một nhân chứng đáng tin
cậy, do đã kể lại một cách rất thành thật trải nghiệm của mình dựa trên
vị trí ở ngay trung tâm quyền lực của chế độ.
Speer không tự tô
bóng và thú nhận đã làm một cuộc 'đổi chác với quỷ', hay 'Faustian
bargain', bán linh hồn để đổi lấy sự thành công sự nghiệp. Speer tâm sự
là viết hồi kí cho các con đọc để hiểu về bố mình và cái thời đại điên
rồ đã phá hủy quê hương ông.
Nhưng người đọc có cảm tưởng ông viết cũng cho chính mình, để đối diện và làm hòa với quá khứ.
Nước Đức trong các thập niên 1920 và 1930
Nước Đức bị kiệt quệ sau Thế Chiến thứ Nhất, do các điều kiện khắt khe phe Đồng minh áp đặt sau khi thắng trận.
Cuộc
Khủng hoảng Kinh tế toàn cầu vào cuối thập niên 1920 làm cho kinh tế
suy sụp thảm thương hơn. Nạn thất nghiệp tăng vọt, lạm phát phi mã và
tiền mất giá. Cảnh nghèo khổ tràn lan. Trong bối cảnh đó, cựu quân nhân
Hitler trở về từ chiến tranh và gia nhập Đảng Thợ thuyền (German Workers
Party), một đảng phái cực hữu hô hào chủ nghĩa quốc gia, chống người Do
Thái.
Hùng biện như một nhà truyền giáo, Hitler nhanh chóng trở thành nhân vật lãnh đạo đảng,
và đổi tên nó thành Đảng Quốc xã. Chưa đến 12 năm sau, đảng này đã trở
thành đảng lớn và mạnh nhất nước Đức, và Hitler được tổng thống Paul von
Hindenburg bổ nhiệm làm quốc trưởng của Đệ tam Thế chế.
Ít người
trước đó tin rằng Hitler và đảng Quốc xã sẽ thành công để lên cầm quyền.
Hitler không có tên tuổi gì trong chính trường, cho tới khi khơi dậy
tính kì thị Do Thái có sẵn từ một số đông dân chúng, và họ sẵn sàng ủng
hộ thông điệp của ông: bọn tài phiệt Do Thái là thủ phạm. Chúng ăn trên
ngồi chốc trong khi 'người Đức thật' gặp khốn khó (người Do Thái cũng là
người Đức, tuy họ theo tôn giáo riêng).
Vũ khí chính trị quan
trọng nhất của Hitler là bạo động. Ông tổ chức đội bạo động Áo nâu
(Brown Shirts), với nhiệm vụ phá đám tụ họp của những đảng phái khác và
đánh đập đảng viên của họ, cũng như bảo vệ các cuộc biểu tình của đảng
Nazi. Cùng lúc, Hitler thiết lập Bộ Tuyên truyền do Joseph Goebbels, một
cựu ký giả với thiên khiếu mị dân điều khiển. Bộ Tuyên truyền xuất bản
một nhật báo để làm cơ quan ngôn luận, chống các báo chí và đảng phái
khác và chỉ mặt các thành phần họ gọi là 'kẻ thù của nhân dân.'
Lo
sợ quyền lực tạo được do đám ủng hộ Nazi cuồng tín, các chính trị gia
tại chức đã nhường nhịn Hitler và cuối cùng nhường luôn cả chức quốc
trưởng. Ở đỉnh quyền lực, Hitler bắt người Do Thái cho vào trại tập
trung, cướp tài sản, và xịt hơi ngạt để thủ tiêu họ. Nạn nhân không chỉ
là người Do Thái, mà cả các nhóm thiểu số khác, như người Gypsie, xã
hội, cộng sản, người đồng tính.
Nước Mỹ vào năm 2015-2016
Khi ông Trump ra tranh cử vào cuối năm 2015, kinh tế Mỹ đã nhiều phần hồi phục sau cuộc Đại Suy thoái của năm 2008. Hệ thống tài chính đã ổn định,
lãi suất và lạm phát vẫn thấp, nền kinh tế đã tạo ra nhiều công ăn việc
làm mới, tỉ lệ thất nghiệp đã xuống 4.8%, mức thấp nhất trong 10 năm,
thị trường chứng khoán và địa ốc đã lên nhiều. Xu hướng tương đối khả
quan và hứa hẹn còn tiếp tục đi lên trong nhiều năm.
Do ảnh hưởng
của toàn cầu hóa, cũng như hậu quả của chuyển tiếp từ kinh tế sản xuất
sang kinh tế kỹ thuật số, sự khôi phục của nước Mỹ không đồng đều. Các
tiểu bang ở hai bờ đại dương, các thành phố lớn, không những đã khôi
phục nhanh chóng mà còn trở nên thịnh vượng hơn cả trước thời suy thoái.
Nhưng nhiều nơi bị bỏ rơi, như 'vòng đai rỉ - rust belt', với các nhà
máy đã đóng cửa và nạn thất nghiệp vẫn còn rất cao. Những vùng thôn quê,
các thị trấn nhỏ, đều khôi phục chậm, và cư dân những vùng này chán nản
với các chính sách của nhà nước không hữu hiệu đối với họ. Thông điệp
của Trump đến rất đúng lúc.
Trump bắt đầu ghi chú ý và tạo sự khác
biệt với mười mấy ứng cử viên tổng thống Cộng Hòa khác khi ông đưa ra
một giả thuyết âm mưu không bằng chứng (và không thật) rằng Obama không
phải là người Mỹ, do đã sinh ra ở nước ngoài.
Thông điệp ngầm
nhưng rất rõ cho những người vốn kì thị và không chấp nhận một tổng
thống da đen: Obama không có chính danh và đã lừa lọc họ. Sau khi lời
tuyên bố này gặp sự phản đối mãnh liệt không những từ phía Dân chủ mà cả
từ các chính khách Cộng hòa, ông để điều dối trá này chìm xuống, tuy tác hại của làn ranh chủng tộc do ông vẽ ra đã trở thành vĩnh viễn.
Thay
vì công nhận các thành quả của tiến trình phục hồi kinh tế như nạn thất
nghiệp đã giảm xuống thấp, nhiều công ăn việc làm đã được tạo ra, thị
trường chứng khoán và địa ốc đã hồi sinh, ông Trump miêu tả tình trạng
nước Mỹ như một xã hội rất tệ hại: thất nghiệp, tội phạm, cạnh tranh
thua các nước khác, bị thế giới lợi dụng.
Cách miêu tả này tương phản với thực trạng của hầu hết nước Mỹ lúc đó, nhưng lại đúng cho những nhóm người Mỹ da trắng bị bỏ quên như đã kể trên.
Trump
điểm mặt thủ phạm đã gây ra các khó khăn kinh tế: người di dân! Hợp
pháp hay bất hợp pháp, người di dân đã cướp việc làm của người bản xứ và
cạnh tranh không sòng phẳng khi nhận lương rẻ mạt. Người di dân có đạo
đức suy đồi: lũ Mễ là một bọn hiếp dâm; các xứ Châu Phi là các hố phân;
bọn Hồi giáo là quân khủng bố.
Trump cũng kêu gọi bạo động: dân ủng hộ súng nên "xử" Clinton, cũng như đánh đập nhà báo vì họ là kẻ thù của nhân dân.
Steve
Bannon, cố vấn của Trump, là chủ tịch của Breibart News, một công ty
truyền thông cực hữu, và đã biến công ty này thành cơ quan ngôn luận rất
hữu hiệu của Trump. Fox News, một công ty truyền thông khác của tỷ phú
bảo thủ Rupert Murdoch, sau này cũng hùa theo.
Nhiều người
ủng hộ Trump chỉ thu nhận tin tức từ hai công ty này vì số còn lại đều
bị Trump gọi là 'tin giả - fake news', tuy họ bao gồm cả những tổ hợp
truyền thông danh tiếng và chất lượng như New York Times, Washington
Post, CNN, NBC, v.v.
Trump hầu như tiếm quyền lãnh đạo đảng Cộng
hòa, vì trước đó rất lạnh nhạt với đảng này, có thời còn ghi danh theo
đảng Dân chủ. Ngay cả Fox News đã chất vấn khi Trump tranh cử về quá
trình đổi đảng.
Một nhóm truyền thông bảo thủ khác, The Washington Times,
cho biết Trump đã đổi đảng ít ra 5 lần, lần cuối là năm 2012 khi chuyển
từ "vô đảng phái" sang Cộng hòa. Các chính khách Cộng hòa ban đầu chỉ
trích Trump nặng nề, nhưng khi thấy sức mạnh của đám cử tri gốc của ông,
họ trở nên im re, nhường nhịn. Trump thắng các ứng viên Cộng hòa khác
và sau đó đắc cử thành tổng thống.
Tương đồng và khác biệt
Tình trạng nước Đức khoảng năm 1930 và nước Mỹ năm 2016 có nhiều khác biệt.
Đức còn ở đáy của cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng nhất lịch sử,
trong khi nước Mỹ có một nền kinh tế ổn định, tuy không hoàn toàn đồng
đều.
Nhưng cách thức thu phục sự ủng hộ của đám đông có nhiều
điểm tương đồng. Công thức của cả hai chính trị gia sử dụng những nguyên
liệu căn bản chung: sự dối trá (ở Đức, Do Thái là thủ phạm; ở Mỹ là di
dân, người da màu), bạo động (ở Đức là bạo động thật; ở Mỹ là đe dọa và
cổ võ bạo động), tính kì thị chủng tộc, tấn công báo chí và sử dụng tin
giả mạo nhằm lũng đoạn dư luận.
Ở điểm cuối trên, ông Trump còn
được sự yểm trợ của Putin và tình báo Nga. Công thức này đã chứng tỏ rất
hiệu lực vì cả hai chính trị gia đều đã thành công leo đến tận đỉnh
quyền lực.
Tương lai sẽ đi về đâu?
Kết quả ở nước Đức đã
vào tất cả các sách sử như một bài học nhân loại cố gắng không lập lại. Ở
Mỹ khó biết hơn, do lẽ đương nhiên.
Tương lai tùy vào tất cả chúng ta.
Nước
Mỹ đã có một lịch sử gần 300 năm phấn đấu cho nhân quyền, cho sự bình
đẳng bất chấp màu da, chủng tộc, tôn giáo và giới tính, cho nên hiện
tượng một quyền lực dựa trên hô hào cho sự chia rẽ, bạo động và dối trá
có thể chỉ là một điểm lóe sáng giây lát trong chuỗi lịch sử nhiều ngàn
năm của nhân loại.
Nhưng ở Đức vào thời 1930, nhiều người cũng đã nghĩ địa ngục trần gian không thể nào xảy ra.
Tương lai tùy vào tất cả chúng ta.
Để kết thúc bài viết, tôi xin mượn bài thơ của nhà thơ Đức Martin Niemöller…
'Đầu tiên họ đến bắt các người đảng Xã Hội, và tôi không lên tiếng- Vì tôi không phải là đảng viên Xã Hội
Rồi họ đến bắt các người trong nghiệp đoàn thợ thuyền, và tôi không lên tiếng- Vì tôi không phải là thành viên của nghiệp đoàn thợ thuyền
Rồi họ đến bắt các người Do Thái, và tôi không lên tiếng- Vì tôi không phải Do Thái
Rồi họ đến bắt tôi, và không còn ai để lên tiếng giúp tôi'
(có nhiều bản dịch khác nhau của bài thơ này, nhưng ý đều tương tự),
và câu nói của nhà làm phim Michael Moore,
'Dân
chủ không phải là một trò thể thao mà ta chỉ làm khán giả, nó là một
sinh hoạt đòi hỏi mọi người tham gia. Nếu chúng ta không tham gia, nó
không còn là dân chủ nữa.'
BBC