Cải cách điền địa và giải thể giai cấp đại địa chủ Nam kỳ thời ông Diệm (Võ Thanh Liêm)
Ngoài
ra truất hữu hết đất của Pháp kiều cắt đứt mối quan tâm của
nước Pháp với miền Nam thì sau này mình có sao họ mặc kệ.
Phát minh nông nghiệp kỹ nghệ gì bên Âu Châu, nước Việt Nam cũng
không được tham gia phát triển. Dựa vào mỗi một mình Mỹ hỏi
làm đoạn tuyệt như vậy có hay không ? Trả thù Pháp rồi có
sướng hơn cho vận mệnh quốc gia không ? (Võ Thanh Liêm)
Trong
khi miền Bắc cụ Hồ vung tay chém giết địa chủ chỉ có 1 mẫu
ruộng thì cụ Ngô trong Nam nhơn đạo hơn, cải cách ruộng đất có
trả tiền bồi thường nhưng thấp hơn giá thị trường trên dưới
20%.
Thật
vậy, chương trình Cải cách Ruộng Đất, hay còn được gọi là
Cải Cách Điền Địa của Tổng thống Ngô Đình Diệm được biết đến
nhiều nhất song song với quốc sách Ấp Chiến Lược mà người
đương thời ca ngợi.
Chương trình Cải cách điền địa của Tổng thống Ngô Đình Diệm
Dựa
vào thống kê 70% chủ điền sở hữu hiếm hoi 5 hecta và có số
làm việc cho đại địa chủ có cả chục ngàn mẫu là bất công và
là vùng đất mầu mở cho cộng sản phát sinh ra.
Mục
tiêu thứ nhứt là xóa bỏ giai cấp phú nông mà trước kia người
ta nhầm lẫn cho là ‘Tiền hiền khai khẩn hậu hiền khai canh’,
giờ phải hiểu theo nghĩa mới là địa chủ bốc lột.
Mục
tiêu thứ hai là tạo cảm giác công bằng xã hội, nâng giai cấp
nông dân ít đất lên thành nông dân nhiều đất hơn.
Người đồng bào Thượng thì thật đáng buồn. Nói ở phần sau.
Hai
nước láng giềng Nam và Bắc cùng cải cách ruộng đất thoạt
trông có vẻ bắt chước nhau quá phải không ? Lột da con mèo có
nhiều cách, bắt chước dù làm tốt hơn vẫn không phải sáng tạo.
Dụ số 57, tiến hành Chính sách Cải cách điền địa
Ngày
22/10/1956, Tổng thống Ngô Ðình Diệm cho ban hành Dụ số 57, tiến hành
Chính sách Cải cách điền địa phiên bản Việt Nam Cộng Hòa. Cụ
Diệm trưng thu ruộng của tất cả các đại địa chủ để cho người
nông dân nghèo mua trả góp. Lại có 500.000 hecta đất chánh phủ
cho rằng đất hoang tịch thu cho người lưu dân canh tác.
Lời bàn :
Đất hoang nhiều như vậy mà nông dân lại cứ theo điền chủ làm
tá điền mà không chịu canh tác trên đất hoang hàng ngàn mẫu kia
quả thật khó hiểu.
Sau
khi truất hữu, mỗi địa chủ giờ còn giữ lại 100 mẫu, chánh
phủ bán lại cho nông dân nghèo và đồng bào miền Bắc di cư với
giá rẻ. Cả hai bên chủ điền và nông dân mới mua ruộng của
chánh phủ được trả góp dài hạn 12 năm cho chánh phủ. Chánh
phủ đứng ra làm trung gian. Trong thực tế nông dân làm chủ ruộng
mua từ chánh phủ thường hay bê trể trong việc trả góp, hơn nữa
thời hạn cho vay khá phức tạp trong một giai đoạn đầy xáo trộn nên nông
dân không trả nổi ; số tiền cho vay không trả nổi coi như nhà nước
tặng không cho nông dân vậy.
Chiếu
theo Dụ số 57, chính phủ truất hữu 430.319 ha đất từ 1.085 đại điền chủ
Nam kỳ. Cụ Ngô đồng thời truất hữu 220.813 mẫu ruộng của Pháp
kiều và tiễn họ hồi hương về mẫu quốc, cắt đứt liên hệ đất
đai của người Pháp tại Việt Nam vĩnh viễn. Mang tổng số ruộng
truất hữu lên 651,182 mẫu.
Chương
trình Cải cách điền địa còn có chánh sách thành lập 25 Khu
Trù Mật để đưa 250.000 người miền Bắc di cư vào Nam với đôi bàn tay
trắng định cư trên đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1959 cụ Diệm lại
lập ra Ngân hàng Quốc gia Nông tín chủ yếu cho nông dân vay tiền
canh tác. Vì khó khăn, không có bao nhiêu người trả nợ hoặc trả
tiền mua góp ; với thời gian số tiền cho vay coi như nhà nước
tặng không cho dân vậy.
Số
lượng lúa gạo do nông dân sản xuất tăng lên đáng kể : mỗi mẫu
ruộng thâu về chừng 2 tấn lúa. Phân bón cũng được phân phát
rộng rãi. Tất cả đều nhờ vào tiền viện trợ của Mỹ mà có.
Miền Nam xuất cảng gạo tăng từ 70 ngàn tấn lên đến 323 ngàn tấn.
Để
biết trong tâm tư của Tổng thống Diệm nghĩ sao về chương trình
này chúng ta phải coi bài viết của tiến sĩ Phạm Văn Lưu, từng
phỏng vấn ông Ngô Đình Luyện về mấy chánh sách trên :
(trích) "Đối
với Tổng thống Diệm, dân chủ kiểu Mỹ là một thứ sản phẩm xa
xỉ hoàn toàn không thích hợp với một quốc gia chậm tiến như
Việt Nam, đa số dân chúng hơn 80% sống ở thôn quê, còn nghèo
đói, thất học, không có an ninh, luôn bị du kích cộng sản đe
dọa, thì những tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp,
tự do bầu cử chẳng có ý nghĩa gì cả đối với họ".
Lời bàn : Không
giữ được an ninh cho người dân là lỗi của ai ? Lỗi của chánh
phủ. Xem tư tưởng nói trên chúng ta cần đặt ra nhiều câu hỏi.
Sao
lại bảo 80% người Nam kỳ nghèo, đói và ngu bất nhơn làm vậy ?
Nghèo đói mà còn nhận thêm 1 triệu người Bắc vào cạp đất ăn
chung với nhau hay sao ? Người Nam kỳ nghèo và đói và ngu si dốt
nát gần như toàn diện chẳng hay người Huế và xứ Quảng có no
và khôn hơn chăng ?
Vấn
đề Dân chủ nếu được đặt ra thì khi ứng viên Tổng thống đi xin
phiếu cử tri, nói thẳng : "Ông bà cử tri nghèo đói và ngu bất
nhơn, hãy bỏ phiếu cho tôi nhé"... Cử tri sẽ phản ứng ra sao ?
Cộng sản Nam kỳ toàn là trí thức hạng nặng như trí thức Tây
học Trần Văn Giàu, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch mà những nông dân
theo Hòa Hảo, Cao Đài, Bình Xuyên chống lại bọn cộng sản đó,
tiêu diệt nó lúc không có chánh phủ thì phải khôn hơn chúng nó
nên năm 1954 mới còn miền Nam không cộng sản cho đồng bào miền
Bắc vô Nam tị nạn cộng sản.
Ít học không đồng nghĩa với ngu. Nghèo là khi so với người giàu hơn, không đồng nghĩa với đói.
Ông Phạm Văn Lưu giải thích tiếp mục tiêu của cụ Diệm bảo vệ người dân khỏi sự bốc lột của địa chủ Nam kỳ :
"Điều
mà dân chúng ở nông thôn mong muốn là một chính quyền mạnh,
đủ để bảo đảm an ninh cho họ chống lại sự khủng bố của Việt
cộng. Hằng đêm, du kích quân cộng sản dùng súng hăm dọa để thu
thóc gạo, cưỡng ép con em họ phải tham gia hàng ngũ cán binh
Việt cộng. Dân quê cần chánh quyền tạo ra dân quê cần chánh
quyền tạo ra cho họ một đời sống đủ ăn, đủ mặc chống lại sự
bốc lột của chủ đất và của một thiểu số có thế lực và
giàu có khác"…
Ông Phạm Văn Lưu nhấn mạnh thêm về giới nhà giàu bốc lột nhà nghèo trong Nam :
"Những
người địa chủ và một thiểu số giàu có lợi dụng sự nghèo
khổ và thất học của họ để khai thác và bốc lột họ". (ngưng trích).
Lời bàn : Chỉ
có thiểu số người địa chủ bốc lột tá điền thì tại sao lại
xóa bỏ truất hữu đa số tốt lành ? Khi rước một triệu đồng bào
Bắc di cư vào Nam thì chánh phủ Diệm đã lấy ra có 3 triệu
hecta đất canh tác bị bỏ hoang, còn đất trên Cao Nguyên thì coi
như hoang hết không kể chủ đồng bào Thượng bản địa là gì.
Tại
sao một năm sau lại có chuyện bất công : nông dân nghèo Nam kỳ
cần phải phân chia ruộng lại từ điền chủ ? Nông dân nghèo bị mù
lòa hay sao mà không thấy đất hoang hàng mấy triệu mẫu bỏ
hoang mà cứ theo làm việc cho chủ điền ?
Đánh
đổ giai cấp địa chủ vốn là ‘Tiền hiền khai khẩn hậu hiền
khai canh’ của Nam kỳ chính là mục tiêu hóa giải ảnh hưởng
chánh trị của người miền Nam dựa vào tài sản điền địa.
Hơn
thế nữa, đây là một bội ước với lời cam kết của Hoàng đế
Bảo Đại tại Đà Lạt năm 1949 khi các đại biểu Nam kỳ quốc yết
kiến Quốc trưởng để bị thuyết phục gia nhập nước Việt Nam
thống nhất. Chỉ 5 năm sau thì chẳng có gì là chắc chắn cả.
Nếu vua Bảo Đại cách chức ông Diệm hoặc ngược lại ông Diệm
truất phế Bảo Đại thì vẫn là sự bội ước của 2 cá nhơn. Cải
cách điền địa ở trong Nam là bội ước với cả 10 triệu con người.
Thành
quả của chương trình Cải cách điền địa của miền Nam gây tiếng
vang khắp thế giới và được Mỹ khen ngợi và hoan hỉ trả tiền
mọi phí tổn. Chương trình này thành công xóa bỏ giai cấp địa
chủ đã hiện diện từ thời chúa Sãi, chúa Võ thế kỷ 17 tới mãi
bây giờ.
Những
dòng họ có tiếng là Tiền Hiền Khai Khẩn giờ khác trước.
Người cày canh tác cho chủ nông dù mang nợ của chánh phủ nhưng
nay dễ chịu hơn không phải nộp lúa cho địa chủ nữa. Thiếu tiền
thì thôi không trả. Chương trình tạo công ăn việc làm cho công
chức sở điền địa, lu bu một thời gian..
Tất
cả những mục tiêu cao đẹp đều thành công duy có mục tiêu ngăn
chặn ảnh hưởng của cộng sản thì thất bại. Chính vùng miền Tây
là nơi có cải cách điền địa từ chống cộng thời Thủ tướng Tâm,
Thủ tướng Hữu, giờ người dân quay ra ủng hộ cộng sản. Cái
quái thai Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành lập ở miền Tây
và năm 1960 thì đã có 30% lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa bị cộng
sản miền Nam kiểm soát.
Ngoài
ra chương trình này thành công về mặt tuyên truyền nhưng nếu
đứng trên căn bản kinh tế và ngân sách thì là thất bại vì
không nhận lại được tiền cho mượn trước, lúa gạo thì nông dân
thay vì nộp cho điền chủ lại nộp cho cộng sản miền Nam.
Lời bàn : Mỹ
trả tiền cho chương trình Cải cách điền địa, nếu hay ho sao Mỹ
hoặc mấy nước Tây phương không truất hữu đất của địa chủ chia
cho dân nghèo đi ?
Tại
vì nông nghiệp theo kiểu thâm canh chu vi nhỏ đã lỗi thời rồi.
Năm 1950 là kỷ nguyên kỹ nghệ hóa nông nghiệp. Nông trại hàng
ngàn mẫu là lý tưởng cho chủ nông phát triễn cơ giới hóa nghề
nông, sử dụng máy móc thay cho sức người. Nông nghiệp miền Nam
đất tập trung vô chủ nông giàu là đặc biệt ưu đãi thuận lợi
để tham gia vô thế giới tân tiến.
Khi
người ta có 2.000 mẫu đất thì có nhiều động lực và khả năng
kinh tế để mua máy cày, máy gieo hột giống, máy gặt, máu sấy,
máy phun thuốc trừ sâu v.v... Khi có 1 mẫu hoặc 3 mẫu thì chỉ
nên dùng cái cuốc, con trâu cũng không có vì không đủ lợi tức
để nuôi.
Với
số tiền Mỹ cho chánh phủ ông Nhu-Diệm đã có thể phát triển
kỹ nghệ nhẹ, lập công ty tư doanh hoặc quốc doanh hoặc công tư
hợp doanh các ngành may, dệt, thức ăn đóng hộp, xà bông, đồ
chơi trẻ em, giày dép, máy may, quạt máy, tủ lạnh, thậm chí
sản xuất xe hơi và võ khí. Như vậy thu hút lao động từ quê ra
thành phố. Nông thôn vắng người dễ bảo vệ an ninh hơn.
Năm
1955 là lúc thế giới lao vào cách mạng kỹ nghệ đợt 3 mà
Nhật, Taiwan và Mỹ đều hướng tới. Chúng ta lại trở về với con
trâu cái cày là sao ? Chủ trang trại 4.000 mẫu giàu có họ có
thể trả tiền cho quân đội bảo vệ họ.
Ngoài
ra truất hữu hết đất của Pháp kiều cắt đứt mối quan tâm của
nước Pháp với miền Nam thì sau này mình có sao họ mặc kệ.
Phát minh nông nghiệp kỹ nghệ gì bên Âu Châu, nước Việt Nam cũng
không được tham gia phát triển. Dựa vào mỗi một mình Mỹ hỏi
làm đoạn tuyệt như vậy có hay không ? Trả thù Pháp rồi có
sướng hơn cho vận mệnh quốc gia không ?
Bần phú luận
Khác nhau hai chữ phú, bần
Khắp trong thiên hạ bao lần thị phi
Giàu sang túc thực túc y
Nghèo thì trơ trọi còn gì ước mơ
Lưng không tiền thì bảo 'ngu ngơ'
Tay cầm bạc lên cơ 'người trí'
Hỏi cho ra luân lý
Đâu là cảnh phân kỳ,
Giàu Thạch Sùng giàu thị phú gia
Khó Tăng Tử khó đà có tiếng
Những kẻ khoe môi miếng
Mong để tiếng ngàn thu…
Võ Thanh Liêm
(28/11/2018)
Tài liệu tham khảo :
1. Phạm văn Lưu, Lịch sử chính trị Cận Đại Việt Nam, International Edition, 2016, tr. 418-419
2. Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng Minh Nhảy Vào
********************
Cải cách điền địa ở miền Nam ra sao ?
Nguyễn Quang Duy, 24/09/2014
Trong
khi miền Bắc phóng tay phát động Cải cách Ruộng đất tiêu diệt tầng lớp
địa chủ thì chính quyền miền Nam liên tục tiến hành tư hữu hoá đất đai,
thực hiện công bằng xã hội, nâng cao đời sống nông dân.
Qua việc thu mua đất từ các điền chủ rồi bán lại hay phát cho nông dân, trước năm 1975 mọi gia đình nông dân miền Nam đều đã thật sự làm chủ mảnh đất tư hữu của mình.
Qua việc thu mua đất từ các điền chủ rồi bán lại hay phát cho nông dân, trước năm 1975 mọi gia đình nông dân miền Nam đều đã thật sự làm chủ mảnh đất tư hữu của mình.
Ngày 22/10/1956, Tổng thống Ngô Ðình Diệm cho ban hành Dụ số 57, tiến hành Chính sách Cải cách điền địa
Chương trình Người Cày Có Ruộng (NCCR) là một cuộc cách mạng xã hội, thay đổi tận gốc rễ nông thôn miền Nam.
Chương
trình được thực hiện trong ôn hòa, dựa trên tinh thần thượng tôn luật
pháp, hòa giải và hòa hợp xã hội. Một mặt tôn trọng quyền lợi của chủ
đất, khôi phục và bảo vệ quyền tư hữu đất đai. Mặt khác giúp tòan thể
nông dân có ruộng cày.
Thành công một phần nhờ vào sự đóng góp của Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh.
Nhưng
chính yếu vẫn là từ hai vị lãnh đạo miền Nam : Thủ tướng Ngô Đình Diệm
đã thực hiện chương trình ngay khi về nước và Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu quyết tâm nối tiếp thực hiện chương trình.
Tại
Cần Thơ vào ngày 26/03/1970, ngày ban hành Luật NCCR Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu tuyên bố: Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đời tôi". Ông
cho biết : "Tôi đã từng tham gia Việt Minh. Tôi biết rằng Việt Minh là
cộng sản, họ bắn người dân, họ lật đổ các ủy ban xã, họ tịch thu đất
đai".
Ông
Thiệu hiểu rõ Luật NCCR không phải chỉ là thành quả của nền dân chủ
nghị viện non trẻ, mà còn là một chính sách mang lại chính nghĩa cho
công cuộc đấu tranh chống cộng sản.
Những
tài liệu phổ biến gần đây cho thấy, sau Mậu Thân 1968 số thanh niên
miền Nam theo cộng sản càng ngày càng ít đi, không đủ bổ xung số cán
binh cộng sản ra hồi chánh, lên đến trên 200.000 người.
Chính vì lý do này cộng sản Bắc Việt đã phải mang quân chính quy từ miền Bắc vượt biên giới xâm lấn miền Nam.
Có
an cư mới có lạc nghiệp. Ngày nay đất đai thuộc quyền quản lý nhà nước
và cán bộ cộng sản tòan quyền định đọat. Nông dân làm thuê cho guồng máy
cầm quyền không rõ ngày mai ra sao. Bởi thế nông thôn càng ngày càng
suy sụp mọi mặt.
Thể
chế đi ngược lòng dân rồi cũng sẽ bị thay đổi. Bài học từ Chương Trình
NCCR là phải trao lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Chính phủ
tương lai cần thực hiện chương trình bán trả góp đất cho dân để có ngân
sách đầu tư xây dựng lại nông thôn.
Dân có giàu thì nước mới mạnh. Nông dân sẽ luôn là tầng lớp chính của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử đã chứng minh nông dân luôn là nền tảng trong việc bảo vệ và xây dựng quốc gia. Nông dân có giàu thì nước mới mạnh.
Tình hình ruộng đất miền Nam
Khi
quân Pháp xâm chiếm nước ta, miền Nam vẫn còn nhiều vùng chưa được khẩn
hoang, nhiều vùng vì chiến tranh nông dân đã phải bỏ ruộng vườn.
Lợi
dụng cơ hội một số người Pháp và người theo Pháp đã chiếm, rồi thông
đồng với nhà cầm quyền Pháp hợp thức hóa quyền sở hữu đất đai họ chiếm
được. Trước 1945, theo ước tính trong số 6.530 đại điền chủ (trên 50 ha
đất) có 6.316 là ở miền Nam.
Miền Nam không xảy ra Cải cách Ruộng đất, không có nghĩa là cộng sản miền Nam nhân đạo hơn cộng sản miền Bắc.
Từ
cuộc Nam Kỳ Khởi Nghĩa 1940, cộng sản đã thẳng tay tàn sát tiêu diệt
giai cấp điền chủ. Các sử liệu cộng sản tóm tắc việc này như sau : "…lập
tòa án cách mạng xét xử bọn phản động, xóa bỏ các thứ thuế vô lý, xóa
các khoản nợ, tịch thu đất thóc gạo của địa chủ chia cho dân nghèo và
nuôi nghĩa quân".
Khi
Việt Minh cướp được chính quyền năm 1945, hầu hết các đại điền chủ đều
bỏ ruộng vườn về sống tại Sàigòn hoặc các thành phố lớn. Việt Minh tịch
thu ruộng đất rồi chia cho tá điền canh tác và lấy thuế.
Ở
các vùng thuộc Hòa Hảo và Cao Đài, nông dân cũng tự thực hiện việc chia
lại ruộng đất hoặc chấm dứt nộp địa tô cho ruộng vườn mà họ đang trồng
cấy.
Sắc lệnh Cải cách Điền Địa của Cựu Hoàng Bảo Đại vì chiến tranh và thiếu thực quyền nên không mang lại kết quả cụ thể
Năm
1949, khi người Pháp bắt đầu trao trả độc lập Cựu Hoàng Bảo Đại cho ban
hành sắc lệnh về Cải cách Điền Địa (CCĐĐ), nhưng vì chiến tranh và
thiếu thực quyền nên sắc lệnh này không mang lại kết quả cụ thể nào.
Sau hiệp định đình chiến Genève chia đôi đất nước, miền Nam đã trải qua hai cuộc CCĐĐ và một số chính sách về ruộng đất.
Sau hiệp định đình chiến Genève chia đôi đất nước, miền Nam đã trải qua hai cuộc CCĐĐ và một số chính sách về ruộng đất.
Cải cách điền địa lần thứ nhất
Bước
đầu của chính sách cải cách điền địa, Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho ban
hành Dụ số 2 và Dụ số 7 nhằm thiết thiết lập quy chế tá canh.
Địa
tô được tính không quá 25% vụ lúa thu hoạch chánh. Thời gian cho thuê
được quy định là 5 năm. Tá điền và điền chủ có thể xin hủy bỏ họăc tái
ký hợp đồng.
Trường
hợp ruộng đất bị bỏ hoang, ước lượng 500 ngàn ha, thì thuộc quyền sở
hữu quốc gia. Chính quyền thu và cấp phát không cho tá điền.
Các
tá điền trước đây theo Việt Minh được tiếp tục canh tác trên mảnh ruộng
do Việt Minh cấp phát trong thời chiến. Địa tô và quyền tá canh nay
được chính phủ nhìn nhận và bảo đảm.
Ngày 22/10/1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho ban hành Dụ số 57, tiến hành Chính sách CCĐĐ.
Mỗi
điền chủ chỉ được quyền giữ tối đa 100 ha ruộng, trong số nầy 30 ha
được phép trực canh, còn 70 ha phải cho tá điền thuê theo đúng quy chế
tá canh.
Điền chủ bị truất hữu được chính phủ bồi thuờng thiệt hại: 10% trị giá ruộng đất bị truất hữu đuợc trả ngay bằng tiền mặt, phần còn lại được trả bằng trái phiếu trong thời hạn 12 năm, với lãi suất là 3% mỗi năm.
Ruộng bị truất hữu được bán lại cho các tá điền, mỗi gia đình được quyền mua lại tối đa 5 ha và phải trả cho nhà nước trong vòng 12 năm.
Điền chủ bị truất hữu được chính phủ bồi thuờng thiệt hại: 10% trị giá ruộng đất bị truất hữu đuợc trả ngay bằng tiền mặt, phần còn lại được trả bằng trái phiếu trong thời hạn 12 năm, với lãi suất là 3% mỗi năm.
Ruộng bị truất hữu được bán lại cho các tá điền, mỗi gia đình được quyền mua lại tối đa 5 ha và phải trả cho nhà nước trong vòng 12 năm.
Giá
tiền bán bằng với giá Chính phủ trả cho chủ điền. Như vậy chủ yếu Chính
phủ chỉ làm trung gian trong việc chuyển nhượng quyền tư hữu đất đai.
Chiếu theo Dụ số 57, chính phủ truất hữu 430.319 ha đất từ 1.085 đại điền chủ.
Ngày
11/09/1958, Chính phủ còn ký kết Hiệp định Việt Pháp, truất hữu thêm
220.813 ha ruộng đất của Pháp kiều. Như vậy tổng số diện tích đất đai
được truất hữu là 651.182 ha.
Số
ruộng được truất hữu được giao cho 123.198 tá điền. Ngoài ra còn có
2.857 tá điền khác đã trực tiếp mua lại đất của các đại điền chủ.
Một
số ruộng truất hữu cũng được bán cho các cựu chiến binh, những nông dân
trốn Việt Minh nay hồi hương và đồng bào miền Bắc di cư vào Nam.
Giới
điền chủ đều ủng hộ chính sách CCĐĐ. Trong thời chiến ruộng đất của họ
bị xem như đã mất. Nay chính phủ khôi phục lại quyền sở hữu ruộng đất,
họ được quyền thu địa tô và lãnh tiền bồi thuờng thiệt hại nếu bị truất
hữu. Đại điền chủ vẫn còn được giữ lại 100 ha.
Các chính sách khác
Nhằm
giải quyết công ăn việc làm cho đồng bào miền Bắc di cư, giải quyết nạn
thất nghiệp hậu chiến và đồng thời cũng để cô lập họat động du kích
cộng sản, Tổng thống Ngô đình Diệm còn thực hiện chính sách xây dựng các
khu dinh điền, khu trù mật và các ấp chiến lược.
Đến năm 1961, chính phủ đã thành lập 169 trung tâm tái định cư, với 25 Khu Trù Mật tập trung trên đồng bằng sông Cửu Long, tiếp nhận 50 ngàn gia đình, với 250 ngàn người tái định cư. Diện tích đất trồng được khai hoang hay được tái canh đạt 109.379 ha.
Đến năm 1961, chính phủ đã thành lập 169 trung tâm tái định cư, với 25 Khu Trù Mật tập trung trên đồng bằng sông Cửu Long, tiếp nhận 50 ngàn gia đình, với 250 ngàn người tái định cư. Diện tích đất trồng được khai hoang hay được tái canh đạt 109.379 ha.
Tháng
4/1957, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho thành lập Quốc Gia Nông Tín Cuộc
cho nông dân vay tiền một cách dễ dàng, nhẹ lãi và không đòi hỏi thế
chấp hay người bảo lãnh.
Đến
năm 1963, Quốc Gia Nông Tín Cuộc đã cho vay số tiền lên đến 4 tỷ 600
triệu đồng, 85% số tiền để giúp các tiểu điền chủ hay tá điền. Nhưng vì
không có thế chấp và vì chiến tranh nên rất ít nông dân chịu trả nợ.
Chính
phủ cũng đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng
dẫn, giúp đỡ kỹ thuật cho nông dân. Nhờ đó năng suất lúa đã tăng từ 1,4
tấn/ha trong những năm 1950-1954, lên đến 2 tấn/ha năm 1960-1963.
Thành quả và giới hạn
Nhờ
các chính sách nói trên, việc sản xuất, xuất cảng và lợi tức nông
nghiệp đã không ngừng gia tăng. Từ năm 1955 đến 1962, mức sản xuất gạo
đã tăng từ 2,8 triệu tấn đến 5 triệu tấn, còn xuất cảng tăng từ 70 ngàn
tấn lên đến 323 ngàn tấn.
Các
điền chủ có ruộng đất truất hữu nhận các các khỏan bồi thường lớn, họ
đầu tư xây dựng các nhà máy, các phân xưởng tại nông thôn, hay trong
lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Nhờ đó không chỉ riêng
nông thôn, mà tòan miền Nam sống trong cảnh thái bình.
Giới
hạn của chính sách CCĐĐ là 74% tổng số diện tích ruộng lúa ở đồng bằng
sông Cửu Long vẫn thuộc 65.757 trung điền chủ (từ 5 đến 50 ha) và 6.316
đại điền chủ (trên 50 ha). Vẫn còn 795.480 gia đình nông dân chưa được
làm chủ mảnh ruộng đang cày.
Khi
đời sống nông dân nâng cao thì ảnh hưởng của cộng sản cũng bị giảm sút.
Để tồn tại cộng sản đã tiến hành bạo lực chính trị ám sát, bắt và thủ
tiêu cán bộ và chuyên viên phát triển nông thôn.
Cộng
sản cấm tá điền làm đơn xin mua ruộng đất truất hữu, cấm tá điền ký hợp
đồng với chủ điền, buộc điền chủ hủy bỏ địa tô. Một số ngừơi đã bị giết
vì không tuân theo các lệnh cấm nói trên.
Cùng lúc cộng sản cho trưng thu thóc lúa của nông dân, tiến hành chiến tranh du kích, khủng bố phá họai làng xã miền Nam.
Sau
đảo chánh 1/11 năm 1963 cho đến năm 1965, các vụ đảo chánh liên tục xảy
ra, các chính phủ thường xuyên thay đổi. Chính sách CCĐĐ không được
tiếp tục. Chính sách dinh điền và khu trù mật cũng bị đình chỉ. Nhiều ấp
chiến lược bị phá bỏ.
Cộng
sản lợi dụng tình thế đưa cán bộ và quân đội từ miền Bắc vào gia tăng
họat động. Sẵn cơ sở hạ tầng rộng rãi chỉ sau một thời gian ngắn cộng
sản đã kiểm sóat được một phần nông thôn. Ở những vùng chiếm được cộng
sản chia lại ruộng đất cho nông dân.
Đến năm 1965, với sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh, an ninh tại nông thôn dần dần được vãn hồi.
Ngày
3/09/1966, Quốc Hội Lập Hiến được bầu ra. Ngày 1/4/1967, Hiến Pháp mới
được ban hành. Ngày 3/09/1967 cuộc tổng tuyển cử tổng thống và Quốc hội
diễn ra, Tướng Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tổng thống của nền Đệ nhị cộng
hòa ra quyết định tiếp tục áp dụng Chương Trình CCĐĐ.
Cải cách điền địa lần thứ hai
Cuộc
tổng công kích Mậu Thân cộng sản thất bại, tại nông thôn cơ sở hạ tầng
cộng sản bị cô lập, an ninh được vãn hồi. Số ruộng trước đây bị bỏ hoang
nay được cấp phát cho nông dân.
Đến năm 1969, có thêm 261.874 gia đình được cấp ruộng để canh tác, nâng tổng số người có ruộng lên 438.004 người.
Tháng
7/1969, Chương trình bình định và phát triển nông thôn được tiến hành.
Chính phủ cho tổ chức lại cơ cấu hạ tầng nông thôn và đào tạo cán bộ xây
dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng dẩn, giúp đỡ kỹ thuật nông
nghiệp cho dân.
Ngày 25/08/1969, Tổng Thống Thiệu đưa dự luật Người Cày Có Ruộng ra quốc hội thảo luận.
Điểm
chính của dự luật là giảm số ruộng đất tối đa điền chủ xuống còn 15 ha,
trưng thu và cấp (không bồi hoàn) cho hơn tãm trăm ngàn nông dân chưa
có ruộng cày.
Nhiều
dân biểu nghị sĩ thuộc tầng lớp đại điền chủ không muốn bị truất hữu
ruộng đất nên đã tìm cách ngăn cản thông qua dự luật. Mãi đến ngày
6/03/1970 đạo luật mới được Thượng viện thông qua. Ngày 16/03/1970 được
Hạ viện thông qua.
Ngày 26/03/1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho ban hành luật Người Cày Có Ruộng (NCCR) và lấy ngày này làm Ngày Nông Dân.
Các
ruộng đất không được trực canh bị truất hữu phát cho các tá điền đang
canh tác. Mỗi tá điền được phát 3 ha ở Nam phần hay 1 ha ở Trung phần.
Điền chủ trực canh được giữ lại tối đa 15 ha.
Đất
truất hữu được trả 20% bằng hiện kim và 80% bằng công khố phiếu với 10%
lãi trong tám năm. Giá trị của đất ruộng quy định là 2,5 lần giá năng
suất thóc (hay lợi tức) từ khoảnh đất đó.
Trong
vòng 3 năm, 1970-1973, đã có 51.704 điền chủ bị truất hữu tổng số ruộng
là 770.105 mẫu. Trong thời chiến đa số ruộng đất bị ảnh hưởng, nên đa
số các điền chủ bị truất hữu đều không bất mãn.
Để đền đáp chính phủ cho phổ biến rộng rãi các bích chương : "Người Cày có ruộng ghi ơn tinh thần hy sinh của điền chủ".
Nhìn chung ông Thiệu thu phục được nhân tâm của giới cựu điền chủ miền Nam.
Luật NCCR cũng quy định nông dân lãnh ruộng do cộng sản cấp cũng được nhận bằng khoán chính thức sở hữu số ruộng.
Cho đến ngày 28/02/1973 Chương trình CCRĐ coi như đã hòan tất. Đã có 858.821 tá điền được hữu sản hóa 1.003.323 ha ruộng đất. Mọi nông dân miền Nam đều có ruộng cày.
Cho đến ngày 28/02/1973 Chương trình CCRĐ coi như đã hòan tất. Đã có 858.821 tá điền được hữu sản hóa 1.003.323 ha ruộng đất. Mọi nông dân miền Nam đều có ruộng cày.
Chương trình NCCR đã tạo ra một tầng lớp tiểu và trung điền chủ lên đến 1,3 triệu người.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu Quyết tâm thực hiện Chương Trình Người Cày Có Ruộng
Chỉ
còn chừng 10% là có từ 5-15 ha đất, với 10% diện tích trồng trọt và họ
cũng phải tự chăm sóc cho đất đai. Đại điền chủ không còn và việc tá
canh coi như đã chấm dứt.
Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu cũng cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng,
thêm cán bộ xây dựng nông thôn, khuyến khích nghiên cứu và áp dụng
phương pháp canh tác mới với kỹ thuật mới thúc đẩy gia tăng năng suất.
Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn được thành lập. Với bằng khóan đất, nông dân được vay lãi nhẹ để đầu tư sản xuất.
Chương
trình cơ giới hóa nông nghiệp được đưa về nông thôn. Nông dân bắt đầu
trang bị cơ giới để canh tác, sử dụng phân bón hóa học, cải tiến giống
lúa, trồng lúa Thần Nông, tăng gia sản xuất gia súc lai giống… Cơ sở hạ
tầng phát triển nông dân hăng say học hỏi và sản xuất.
Năng
suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên nhanh chóng. Năm 1974,
sản lượng gạo sản xuất đã tăng đến 7,2 triệu tấn với viễn tượng xuất
cảng. Nhờ đó đời sống của nông dân được cải thiện một cách rõ ràng. Số
điền chủ có ruộng bị truất hữu, cũng được chính phủ giúp đỡ sử dụng vốn
kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, dịch vụ lưu thông hàng hoá
nông sản phẩm, dịch vụ chế biến thực phẩm nông sản, hướng đến việc xuất
cảng bán thành phẩm nông nghiệp, giúp nền kỹ nghệ miền Nam khởi sắc đóng
góp xây dựng nền kinh tế quốc gia.
Có
an cư mới có lạc nghiệp. Ngày nay đất đai thuộc quyền quản lý nhà nước
và cán bộ cộng sản tòan quyền định đọat. Nông dân làm thuê cho guồng máy
cầm quyền không rõ ngày mai ra sao. Bởi thế nông thôn càng ngày càng
suy sụp mọi mặt.
Thể
chế đi ngược lòng dân rồi cũng sẽ bị thay đổi. Bài học từ Chương Trình
NCCR là phải trao lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Chính phủ
tương lai cần thực hiện chương trình bán trả góp đất cho dân để có ngân
sách đầu tư xây dựng lại nông thôn.
Dân có giàu thì nước mới mạnh. Nông dân sẽ luôn là tầng lớp chính của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử đã chứng minh nông dân luôn là nền tảng trong việc bảo vệ và xây dựng quốc gia. Nông dân có giàu thì nước mới mạnh.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
Tài liệu tham khảo :
Lâm Thanh Liêm, Chánh sách Ruộng Đất ở Việt Nam 1954-1995, Đường Mới, 1996, paris.