Thông Tư 19 và những câu hỏi phải được trả lời (Xã Luận-Nguyễn Gia Kiểng)
Cùng với Thông Tư 19 và sự phát giác của Quyết Định
689/2004/QĐ-NHNN đã đến lúc Đảng Cộng
Sản phải trả lời một loạt câu hỏi đã được đặt ra từ lâu và ngày càng gây lo âu
và phẫn nộ trong nhân dân Việt Nam.
Quan
trọng nhất trong Thông Tư này là câu: "Quyết
định số 689/2004/QĐ-NHNN ngày 07/6/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam về việc ban hành Quy chế thanh toán trong mua bán, trao đổi hàng hóa và
dịch vụ tại khu vực biên giới và khu kinh tế cửa khẩu giữa Việt Nam và Trung
Quốc hết hiệu lực thi hành".
Một
cách vắn tắt, đó là quyết định cho phép đồng Nhân Dân Tệ (CNY) được lưu hành tự
do, tương đương với đồng tiền Việt Nam tại các tỉnh biên giới và vì, một mặt,
mọi ngân hàng đều có thể mở chi nhánh tại các tỉnh biên giới và, mặt khác,
không có gì trong quyết định này phân biệt một chi nhánh biên giới với các chi
nhánh khác nên đồng CNY trên thực tế cũng là một phương tiện thanh toán như
đồng tiền Việt Nam trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Quyết định này do Ngân Hàng Nhà
Nước Việt Nam ban hành theo chỉ thị của
thủ tướng. Thủ tướng lúc đó là ông Phan Văn Khải nhưng người ta phải hiểu
đây là một quyết định của ông Nguyễn Tấn Dũng. Ông Dũng lúc đó là phó thủ tướng
thường trực nhưng có quyền hành áp đảo hơn hẳn ông Khải. Ông là con đỡ đầu của
ông Lê Đức Anh -nhân vật có mọi quyền lực vào lúc đó- và được công khai chuẩn
bị để làm lãnh tụ của chế độ trong khi ông Khải gần như chỉ là một gia nhân của
Lê Đức Anh. Hơn nữa ngoài chức vụ phó thủ tướng thường trực ông Dũng còn là chủ
tịch Hội Đồng Tài Chính và Tiền Tệ. Ông cũng đã là thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước
trước khi giao chức vụ này cho ông Lê Đức Thúy. Ngoài ra Nguyễn Tấn Dũng còn
giữ một chức vụ đặc biệt quan trọng khác là thường vụ bộ chính trị Đảng Cộng
Sản.
Quyết
định 689/2004 này rất nghiêm trọng. Tuy ngoài mặt và trên nguyên tắc nó chỉ áp
dụng cho các tỉnh biên giới phía Bắc (còn có hai quyết định khác cho các vùng
biên giới với Lào và Campuchia) nhưng vì không có quy định ngân hàng nào được
có chi nhánh biên giới và cũng không có phân biệt một tài khoản biên giới với
một tài khoản bình thường nên có thể nói tóm tắt là trên thực tế bất cứ ai,
doanh nghiệp cũng như cá nhân, đều có thể có tài khoản CNY và tài khoản này có
thể được sử dụng trên toàn lãnh thổ. Hơn nữa quyết định này còn cho phép mọi
ngân hàng và doanh nghiệp đều được mở những "bàn
đại lý" để trao đổi tiền Việt Nam và tiền Trung Quốc, các ngân hàng
Việt Nam và Trung Quốc còn được quyền tự do thỏa thuận hối xuất trao đổi. Nếu
dụng tâm của bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam, hay ít nhất của các ông Lê
Đức Anh, Nguyễn Tấn Dũng và Nông Đức Mạnh, không phải là chuyển giao dần dần
chủ quyền Việt Nam cho Bắc Kinh thì quyết định này hoàn toàn không thể hiểu
được.
Đàng
sau đồng tiền nào cũng là một uy quyền. Khi một người đổi một tài sản của mình
–một con gà, một chiếc xe hay một căn nhà- lấy một tờ giấy, dù tiền mặt hay chi
phiếu, thì phải hiểu là người đó tin rằng đàng sau tờ giấy đó có một uy quyền
bảo đảm sẵn sàng trao lại một tài sản tương đương bất cứ lức nào. Tiền là chủ
quyền. Nhìn nhận cho tiền Trung Quốc tự do lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam
tương đương với nhìn nhận quyền lực của Bắc Kinh trên đất nước Việt Nam, cụ thể
là chấp nhận hậu quả của những quyết định kinh tế tài chính của Bắc Kinh.
Không
thể ngụy biện rằng việc cho lưu hành một đồng tiền nước ngoài đã có tại một số
nước. Chỉ có một vài nước hoặc quá nhỏ để vấn đề chủ quyền không đặt ra hoặc đã
quá suy sụp về mặt kinh tế khiến đồng tiền quốc gia mất hết giá trị mới phải
chấp nhận một đồng tiền nước ngoài làm phương tiện thanh toán.
Nhưng
ngày nay tình hình đã thay đổi, kinh tế Trung Quốc dù trên mặt thống kê chính
thức vẫn còn tăng trưởng ở tỷ lệ hoang đường gần 7% mỗi năm nhưng trên thực tế
đã suy thoái từ nhiều năn nay. Bắc Kinh ngày càng khó che đậy sự suy thoái ngày
càng lộ liễu này bằng những chi tiêu công cộng và xây dựng kết cấu hạ tầng. Thế
giới đã dần dần nhận ra là Trung Quốc sắp khủng hoảng. Trong một năm qua các
chỉ số chứng khoán Trung Quốc đã xuống giá gần 20% và đồng CNY cũng đã sụt giá
gần 10% so với đồng đô la Mỹ trong khi đồng tiền Việt Nam chỉ sụt giá khoảng
5%. Hậu quả là đồng CNY trở thành một đồng tiền xấu so với đồng tiền Việt
Nam. Đồng CNY vì vậy đang trở thành đồng
tiền để tiêu xài thay vì để cất giữ và nó đe dọa tràn ngập thị trường Việt Nam.
Trên thực tế người ta có thể thấy từ mấy năm qua du khách Trung Quốc sang Việt
Nam chủ yếu mua sắm trong các cửa hàng Trung Quốc để thanh toán bằng đồng CNY. Tình trạng mới này chắc chắn đã là lý do ra
đời của Thông Tư 19: thay thế để giảm bớt hậu quả độc hại của Quyết Định
689/2004/QĐ-NHNN.
Phải
rất cảnh giác. Bãi bỏ thẳng thắn và toàn bộ mọi quan hệ đặc biệt với đồng CNY
không chỉ cần thiết mà còn khẩn cấp. Nền kinh tế Trung Quốc và đồng CNY có thể
khủng hoảng bất cứ lúc nào. Trung Quốc khó còn che đậy lâu hơn nữa tình trạng
suy thoái và một căn bệnh bị cố tình che giấu có thể sẽ rất dữ dội khi không
còn che giấu được nữa. Việt Nam có thể bị lôi kéo vào một khủng hoảng lớn cùng
với Trung Quốc. Càng nguy hiểm hơn vì về mặt kinh tế "biên giới Việt
Trung" không chỉ là các tỉnh phía Bắc. Lào và Campuchia trên thực tế đã gần
như là những vùng kinh tế của Trung Quốc. Đây cũng là một thành tích đáng ghi
nhận của Đảng Cộng Sản Việt Nam và khiến chúng ta bị Trung Quốc bao vây.
Các
khu rừng đầu nguồn cho Trung Quốc thuê dài hạn có quy chế nào?
Dự
án Bôxit Tây Nguyên sẽ bị đình chỉ hay không?
Vũng
Áng là một đặc khu kinh tế hay là một nhượng địa?