Ai là người chịu trách nhiệm chính? (Hàn Vĩnh Diệp)
Tố Hữu là người có tài về làm thơ nhưng lại không có kiến thức về chính trị nên đã một lòng theo ĐCSVN và ông đã tiếp tay bức hại không biết bao nhiêu văn nghệ sĩ có nhân cách và tư duy độc lập. Bi kịch của trí thức VN hồi đó và cả bây giờ là đã không dành sự quan tâm đúng mức cho chính trị vì thế không phát huy được khả năng của mình mà còn thân bại danh liệt vì ủng hộ chế độ độc tài.
Trưởng ban có tóm tắt sơ lược nội dung tác phẩm, anh em cố tìm đọc
nguyên bản để xem nó phản động bôi bác ông Tố Hữu và đảng ta như thế
nào? Nhưng không tìm thấy. Trên lãnh đạo ban chắc có nhưng không chuyển
cho cán bộ xem. Hồi ấy, quy định bảo quản, lưu hành văn bản, tư liệu
“mật” nghiêm lắm. Từ Thường vụ, cấp ủy viên, trưởng ban, phó ban đến
chuyên viên, cán bộ … rõ ràng, chặt chẽ lắm, không lơ mơ, lộn xộn như
bây giờ. Ngay như, bản tin tham khảo “xanh” của Thông tấn xã Việt Nam
cũng chỉ trưởng, phó phòng trong ban mới được đọc.
Tôi hỏi: Không biết nội dung thì hướng dẫn thế nào? Đáp: Thì vậy,
trên bảo thế nào mình nói lại thế ấy! Tập sách này, vừa rồi đến chơi với
anh bạn trước là công an văn hóa. Nói chuyện, anh ta đưa cho mượn, cứ
dặn đi dặn lại phải bảo quản kỹ, không được chuyền tay … Những năm đầu
2000, chúng tôi đã được biết chuyện ông Nguyễn Khoa Điềm – Ủy viên Bộ
chính trị, Trưởng ban tư tưởng – văn hóa TW phản ứng, công kích tác phẩm
“Tâm sự của Tố Hữu”. Đây là một trong những cung cách quản lý, kiểm
soát, trói buộc hoạt động văn hóa – nghệ thuật và văn nghệ sỹ, cung cách
này cho đến nay không hề thay đổi. Vì thế, chuyện tuy cũ, nhưng nói lại
chắc vẫn còn mang tính thời sự.
Theo thông lệ của Đảng ta các tác phẩm văn học nghệ thuật muốn ra mắt
đông đảo bạn đọc bằng con đường “chính thống” đều phải qua khâu kiểm
duyệt khắt khe, nghiệt ngã của Ban biên tập – Nhà xuất bản (đằng sau là
Ban tuyên giáo – trước còn gọi là Ban tư tưởng – văn hóa và công an văn
hóa). Những tác phẩm có đôi ba trang, đoạn, chương … nội dung không phù
hợp hay sai trái … với tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng phải cắt
bỏ hoặc bị loại không được xuất bản.
Một số tác phẩm bị xem là “có vấn đề” bằng cách nào đó ra đời, tất
nhiên là có sự đồng thuận ngầm của Ban biên tập nhà xuất bản thì lập tức
có lệnh thu hồi, tiêu hủy, cấm lưu hành. Các tác phẩm “ngoài luồng” bị
công an truy bức, thu hồi; tác giả bị hạch sách, có người phải tù tội.
Loại này, tuyên giáo – công an âm thầm làm việc, không “đao to búa lớn”
ầm ĩ.
Nhưng trường hợp với tác phẩm “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình
Phùng (Nhà thơ Tố Hữu tâm sự)” thì lại ngoại lệ, ông Nguyễn Khoa Điềm
với tư cách là ủy viên Bộ chính trị BCH TW Đảng, trưởng Ban Tư tưởng –
Văn hóa Trung ương đảng (Ban tuyên giáo) đã đăng đàn hùng hổ tuyên cáo,
chỉ trích tác phẩm ấy là “ngụy tạo, vu khống” đ/c Tố Hữu nói riêng và
Đảng nói chung. Bà Vũ Thị Thanh – vợ và là thư ký (do Ban bí thư, Ban
CTTW bổ nhiệm) của ông Tố Hữu cũng lên tiếng phản bác, công kích người
viết tác phẩm trên. Có dư luận cho rằng bà Thanh bị ép dọa cắt các chế
độ đãi ngộ, nhà cửa đang được hưởng nếu không nói theo lệnh trên? Bởi,
trước khi phát hành tác giả đã gởi bản thảo đến cho bà.
Tác phẩm “Tâm sự của Tố Hữu” – Ghi chép của nhà báo Nhật Hoa Khanh
được phát hành dưới dạng chuyền tay trong bạn đọc. Phần viết về quan hệ
của Tố Hữu với Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp được trích đăng
nguyên văn trên các báo Tiền Phong, QĐND, Người Cao Tuổi … Nội dung
chính của tác phẩm là ghi chép lời kể về suy nghĩ, tình cảm “chân thành”
của Tố Hữu đối với Đại tướng TTL và các nhà văn hóa, văn nghệ sỹ, khoa
học v.v… bị xử trí một cách nghiệt ngã, tàn bạo trong các vụ án văn:
Nhân văn giai phẩm – Báo văn – xét lại chống đảng, và rải rác suốt từ
năm 1960 đến nay.
Dư luận đặt dấu hỏi (và tất nhiên là không nhân vật có trách nhiệm
nào, không một tổ chức có quyền uy nào giải đáp công khai minh bạch
trước công luận câu hỏi này). Nếu tác phẩm này là ngụy tạo, vu khống ông
Tố Hữu thì tại sao các cơ quan ban Tuyên giáo Trung ương, công an, Bộ
Văn hóa và bà Thanh không kiện ra tòa án nhà báo Nhật Hoa Khanh và các
tổng biên tập báo Tiền Phong, QĐND …? Có lẽ các vị với quyền thế
“nghiêng ngả trời đất” nhưng không thể khởi kiện hoặc truy bức, kỷ luật
được vì ông Nhật Hoa Khanh có băng ghi âm lời nói hoặc bút tích của Tố
Hữu!
Về Tố Hữu, nhiều tư liệu đã viết về công – tội của ông. Ở đây chỉ xin
nhắc lại những nét chính. Đại thể, sự nghiệp “lẫy lừng” của ông có thể
phân ra hai thời kỳ.
– Trước tháng 8 năm 1945: Ông là nhà thơ – hoạt động cách mạng. Thời
kỳ này ông có một số bài thơ hay, khơi gợi lòng yêu nước, cổ súy tinh
thần đấu tranh cách mạng, thu hút được sự chú ý của quần chúng, nhất là
tầng lớp thanh niên giàu lòng yêu nước thương nòi.
– Sau cách mạng tháng 8 đến những năm 80: Ông là nhà hoạt động chính
trị và làm thơ. Thời kỳ này, ông cũng có một vài bài thơ hay nhưng phần
nhiều là dạng thơ “diễn ca” minh họa đường lối chính sách, hô hào, tuyên
truyền cổ động … giá trị nghệ thuật bình thường. Nhưng, trong lĩnh vực
hoạt động chính trị, vai trò của ông khá nổi bật. Ông tham gia lãnh đạo
khởi nghĩa cướp chính quyền ở Huế, Thuận Hóa, giữ cương vị Bí thư Thành
ủy, Tỉnh ủy.
Thời gian này đã xảy ra vụ án sát hại nhà văn hóa Phạm Quỳnh và ông
Ngô Đình Khôi, cùng con trai Ngô Đình Huân. Nhiều nhân chứng lịch sử,
lúc ấy đang giữ cương vị lãnh đạo chính quyền Huế, Thuận Hóa như các ông
Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Lân … đều xác định họ không biết việc bắt, giết
những nhân vật này. Đó là do lệnh của trên tức là lệnh của Tỉnh ủy, xứ
ủy, bấy giờ do Tố Hữu, bí thư Tỉnh ủy và Nguyễn Chí Thanh, bí thư xứ ủy
Trung bộ.
Cụ Hồ nói với các con cụ Phạm Quỳnh đại ý là: cụ rất tiếc, khi cụ
biết thì việc đã rồi. Nếu Tỉnh ủy Thuận Hóa (Huế), xứ ủy Trung Kỳ báo
cáo xin chỉ thị của chủ tịch Hồ Chí Minh, chắc chắn các ông Phạm Quỳnh,
Ngô Đình Khôi sẽ được hưởng sự khoan hồng của chính phủ như các ông Ngô
Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Vi Văn Định … Vì thế, theo công luận đến nay
cho rằng: Vụ án sát hại nhà văn hóa Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi năm 1945
không thể không có sự chỉ đạo của Tố Hữu và Nguyễn Chí Thanh.
Từ năm 1947 trở đi, Tố Hữu được điều lên TW và giữ các cương vị trọng
yếu: Phó ban, Trưởng ban tuyên huấn (tuyên giáo) TWĐ, Phó thủ tướng,
những năm cuối năm 70 – đầu 80, là Phó thủ tướng thường trực. Ông là
đồng tác giả và là người thực hiện hăng hái, tích cực nhất vụ án chính
trị chống xét lại (thực chất là một thủ đoạn chính trị nham hiểm nhằm
loại bỏ những nhân tài chân chính, thực sự trung với nước, hiếu với
dân); những chủ trương “làm nghèo đất nước – làm khổ nhân dân” như: cải
tạo tư sản công thương nghiệp ở miền Nam; xây dựng 400 pháo đài huyện;
nhập xã, huyện, tỉnh thành; thiết kế xây dựng các mô hình công nông liên
hợp XHCN, điển hình quái gở nhất là Quỳnh Lưu sắp xếp lại giang san của
cái ông bí thư mà dân gọi là ông Mao Trạch Đợi; giá lương – tiền, v.v…
Đặc biệt đối với lĩnh vực văn hóa – văn học nghệ thuật ông trực tiếp
phụ trách từ năm 1947 đến nhiều năm sau này, ông đã có “công rất lớn”
trong việc hủy hoại nền văn hóa, văn học nghệ thuật dân tộc. Trong kháng
chiến chống pháp, Tố Hữu chủ trì việc thực hiện các chủ trương “phi văn
hóa” gây sự bất bình trong giới văn nghệ sỹ, nhân dân như: bài xích,
cấm đoán các loại hình văn nghệ dân tộc: tuồng, chèo, cải lương, vọng
cổ, dân ca; phủ định các trào lưu văn học trước cách mạng tháng 8: Tự
lực Văn Đoàn, hiện thực phê phán, xuân thu nhã tập …
Tố Hữu là một “pháp sư cao tay ấn” trong việc “tẩy não” buộc các văn
nghệ sỹ tự nguyện đi kháng chiến chống Pháp từ bỏ những đứa con tinh
thần của mình đã sáng tạo trước năm 1945. Hòa bình lập lại 1954, Tố Hữu
đã trực tiếp chỉ đạo liên tiếp các vụ án chính trị – tư tưởng trong giới
văn hóa – văn học nghệ thuật được coi là “phi hiện thực XHCN” v.v…
Dưới ngọn đòn chuyên chính vô sản tàn bạo, vô nhân tính của đảng mà
Tố Hữu là người giữ vai trò chủ chốt, nhiều nhà văn hóa, văn nghệ sỹ nổi
tiếng đã bị triệt tiêu, như: Nguyễn Mạnh Tường, Phan Khôi, Vũ Đình Hòe,
Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Đào Duy Anh, Minh Tranh, Nguyễn Công Hoan,
Nguyên Hồng, Nguyễn Đỗ Cung, Văn Cao, Nguyễn Sáng, Nguyễn Hữu Đang v.v…
Nhiều văn nghệ sỹ tài năng, cương trực, có tư duy độc lập như Trần
Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Bính, Hữu Loan, Quang Dũng, Đặng Đình
Hưng, Sỹ Ngọc, Phùng Quán v.v… bị loại khỏi văn đàn và xã hội, có người
bị hủy hoại tinh thần, chết một cách thảm thương, có người bị bắt cầm tù
vô cớ, bị tra tấn dã man hàng chục năm trời; không ít văn nghệ sỹ có
triển vọng mới xuất hiện trên văn đàn như Nguyễn Dậu, Hoàng Cát, Bùi
Ngọc Tấn, Phù Thăng v.v… đã bị đánh gục “không thương tiếc”.
Chính Tố Hữu là đao phủ của các vụ khủng bố đen có
một không hai trong lịch sử văn hóa nước nhà. Công luận còn cho biết
một khía cạnh khác trong nhân cách của Tố Hữu là ông thực thi hành động
chuyên chính thô bạo đối với các nhà văn hóa lỗi lạc, các văn nghệ sỹ
tài danh không chỉ vì quan điểm, ý thức chính trị cực tà mà còn do đố
kỵ, không muốn ai hơn mình và cả sự thù hằn cá nhân nữa. Tiêu biểu là
việc hành xử của Tố Hữu: đóng cửa phòng triển lãm tranh và cấm ca khúc
Tiến về Hà Nội đầu thời kỳ chống Pháp và ca khúc Mùa xuân đầu tiên sau
năm 1975 của Văn Cao vì khoảng năm 1947, trong một lần trò chuyện thân
tình, Văn Cao đã chê thơ Tố Hữu!
Trong “Tâm sự của Tố Hữu”- Nhật Hoa Khanh ghi, Tố Hữu phủ nhận hoàn
toàn tội ác của mình. Bằng một giọng điệu Huế “rất Tố Hữu”, ông hết lời
ca tụng tài năng, đức độ phẩm cách các nhà văn hóa, văn nghệ sỹ bị bức
hại; đặc biệt ngưỡng mộ Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp – người mà
ông đã vào hùa với Nguyễn Chí Thanh và phe lũ Lê Đức Thọ – Lê Duẩn vu
vạ có âm mưu “đảo chính”; lệnh cho báo chí chính thống không được nhắc
đến tên tuổi – công tích của Đại tướng TTL trong các dịp kỷ niệm chiến
thắng Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ trên không, giải phóng miền Nam –
thống nhất đất nước…*
Dư luận vừa ngạc nhiên vừa thú vị trước thái độ hoảng hốt của ông
Nguyễn Khoa Điềm và Ban TTVH (ban tuyên giáo) TWĐ. Lẽ thường tình, khi
tác phẩm này ra đời, Ban TTVH và ông Nguyễn Khoa Điềm phải “lập tức” chỉ
đạo các nhà xuất bản lớn của Đảng – Nhà nước in – phát hành rộng rãi
tác phẩm ấy để “minh oan” cho Tố Hữu – người “thủ lĩnh kiệt xuất” của
mặt trận tư tưởng – văn hóa của Đảng trong mấy chục năm qua. Nhưng, các
vụ án chính trị trong văn học nghệ thuật, sự đày đọa các nhà văn hóa,
văn nghệ sỹ là một sự thật 100% không ai không biết, không một tổ chức
nào, một lãnh đạo nào của Đảng, Nhà nước có thể chối bỏ.
Tố Hữu với cương vị ủy viên Bộ chính trị, Phó thủ tướng chính phủ –
đặc trách công tác tư tưởng – văn hóa – khoa giáo là người chỉ huy chính
các vụ án ấy lại rất có cảm tình, tôn trọng, ngưỡng mộ các “nạn nhân”
mà chỉ do thừa hành nhiệm vụ theo lệnh; vậy lệnh
ấy là của ai, ai mới thực sự là người chỉ đạo, người chịu trách nhiệm
trước lịch sử và dân tộc? Phủ nhận nội dung tác phẩm “Tâm sự của Tố Hữu”
thì mặc nhiên công nhận tội ác của ông Tố Hữu như công luận đã từng lên
án. Nhưng chấp nhận tác phẩm ấy là công khai vạch trần đường lối chính
sách của tập đoàn lãnh đạo; và phải chăng, đường lối, chính sách lãnh
đạo ấy vẫn được thực thi cho đến ngày nay.
Tác phẩm “Tâm sự của Tố Hữu” đã đẩy ông Nguyễn Khoa Điềm – Ban tư
tưởng – văn hóa (Ban tuyên giáo) Bộ công an và TWĐ vào con đường lúng
túng – luẩn quẩn!
_____
* Nhà văn Sơn Tùng cho biết: Một lần ông Tố Hữu – ủy
viên BCT, Phó thủ tướng thường trực đi công tác nước ngoài về. Nhiều
quan chức đảng, chính phủ ra sân bay đón. Tố Hữu vui vẻ cám ơn và bắt
tay từng người. Đến lượt Phó thủ tướng Võ Nguyên Giáp chào, đưa tay ra
thì Tố Hữu ngoảnh đi bắt tay, nói chuyện với người khác!