Những gì cần nói với nhau trong lúc này? (Nguyễn Gia Kiểng)
"...Hậu quả của chính
sách kìm kẹp là các luật sư thực ra là thành phần bị
chèn ép nhất trong các chế độ toàn trị. Họ không giầu
có và cũng không có tự do. Đã thế còn gần như bị
quản chế trong sinh hoạt nghề nghiệp và bị bắt buộc
phải phản bội hàng ngày ngay chính đạo đức nghề
nghiệp của mình. Tình trạng này không thể kéo dài khi
Việt Nam đã mở cửa ra thế giới. Các luật sư đang
khám phá ra rằng chính họ là những người cần dân chủ
pháp trị nhất. Lý do khiến họ thụ động –vì bị
trói buộc- sẽ dần dần trở thành lý do thôi thúc họ
tham gia cuộc vận động dân chủ..."
Vài
ngày nữa sẽ có phiên tòa phúc thẩm xử bốn anh em trong
Hội Anh Em Dân Chủ: Nguyễn Trung Tôn, Trương Minh Đức,
Nguyễn Bắc Truyển và Phạm Văn Trội. Chúng ta có thể
dự đoán rằng các bản án sẽ rất nặng, không khác
phiên tòa sơ thẩm bao nhiêu. Các bạn này cũng biết như
thế. Họ kháng án để phản đối sự tùy tiện dã man
chứ không phải để hy vọng được giảm án. Chúng ta có
nhiều điều để nói với nhau vào lúc này, khi mà chính
quyền cộng sản đã từ bỏ mọi cố gắng nhắm tranh
thủ cảm tình của nhân dân để chỉ còn đàn áp thật
thô bạo.
Nói
gì giữa những người dân chủ?
Dĩ
nhiên mọi người dân chủ đều cùng chia sẻ một sự
quý mến chân thành, sâu đậm và trọn vẹn với các anh
em mắc nạn. Chúng ta nói với họ và với nhau rằng cuộc
đấu tranh cho dân chủ là đúng và nhất định sẽ thắng.
Việc một chính quyền từ bỏ mọi tham vọng tranh thủ
cảm tình của nhân dân tố giác một tâm lý tuyệt vọng.
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhìn nhận rằng giữa họ
và nhân dân Việt Nam không còn gì để nói. Họ đã mang
thất bại ở trong lòng. Chính vì thế, khi chúng ta có lý
do để tin thắng lợi là chắc chắn, chúng ta càng cần
thảo luận về một phương thức hành động và ứng xử.
Điều
cần được thảo luận ngay trong lúc này là thái độ
phải có khi gặp nạn và phải đối diện với bạo quyền
trước trò hề pháp lý của họ. Chúng ta đều biết đây
không phải là những phiên tòa. Những gì mà các anh em
dân chủ và luật sư của họ nói trong phiên tòa không
có ảnh hưởng gì tới kết quả. Chúng ta đã thấy Phan
Kim Khánh nhận tội và xin khoan hồng cũng bị xử 6 năm
tù như Trần Hoàng Phúc hiên ngang thách thức. Linh mục
Nguyễn Văn Lý trước đây nếu không gào thét chống đối
ngay tại phiên tòa để bị bịt miệng và trở thành một
biểu tượng của sự bất khuất thì cũng vẫn bị 8 năm
tù. Các bản án đều đã được quyết định trước.
Nhưng như thế không có nghĩa là các phiên tòa không quan
trọng. Đó chính là khoảng khắc tự hào để xác nhận
-trước công luận, trước đất nước, trước những
người thân và trước lịch sử- con người và lý tưởng
của chúng ta. Không thể có chuyện nhận tội và xin giảm
án. Như vậy vừa sai và phủ nhận chính mình một cách
vừa vô duyên vừa vô ích. Cũng phải bảo đảm trước
rằng luật sư của mình sẽ biện hộ một cách đúng
đắn, nghĩa là quả quyết với lập luận chính xác và
thuyết phục rằng thân chủ của mình hoàn toàn không có
tội và không thể bị kết án. Nếu có những luật sư
khuyên hay gợi ý nên nhận tội và xin giảm án thì phải
chia tay không nể nang. Cũng không cần làm anh hùng. Những
người dân chủ đối diện với bạo quyền còn hơn cả
những anh hùng. Họ đại diện cho lẽ phải, cho lòng yêu
nước và cho danh dự của dân tộc và phải có thái độ
xứng đáng, nghĩa là thái độ trang nhã, an nhiên và nhân
hậu. Như Mahatma Gandhi trước tòa án Anh. Họ càng nên có
thái độ đó vì trước mặt họ là một hội đồng xét
xử không có quyền xét xử, gồm những con người đã
cam tâm bán rẻ danh dự và lương tâm để làm những dụng
cụ ngoan ngoãn cho một chính quyền gian ác.
Họ
chỉ cần nói với các thẩm phán một cách thật nhẹ
nhàng đúng như sự thực. Thí dụ như: "Chúng
tôi không có tội gì và các vị cũng biết chúng tôi
không có tội gì. Chúng tôi không phủ nhận những gì
mình đã làm bởi vì chúng tôi đã chỉ làm những điều
mà mọi người Việt Nam đều làm nếu có cơ hội và
trên thực tế rất nhiều đã làm, có khi còn mạnh mẽ
hơn chúng tôi. Đó là những điều đúng và cần cho đất
nước và cũng không trái với pháp luật của chính chế
độ này. Sở dĩ chúng tôi bị bắt giam, bị hành hạ và
hôm nay bị đưa ra tòa chỉ vì chính quyền này cho rằng
chúng tôi có tổ chức, nhưng quyền kết hợp cũng như
quyền tự do ngôn luận là những quyền tự nhiên đã
được xác nhận trong hiến chương của Liên Hiệp Quốc
mà nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã
cam kết tôn trọng và cũng được ghi ngay trong hiến pháp
của chế độ này.
Các
vị kết tội chúng tôi dựa vào kết luận của một ban
giám định cho rằng chúng tôi đã vi phạm điều này,
điều nọ. Nhưng ban giám định đó là những ai? Họ có
khả năng nào và đã lý luận như thế nào để kết luận
rằng chúng tôi có tội? Trong cáo trạng họ chỉ liệt kê
những điều mà ai cũng có thể làm và rất nhiều người
đã làm để rồi kết luận chúng tôi có tội. Sao họ
không có mặt ở đây hôm nay để đối chất với chúng
tôi và để nhân dân thấy mặt?
Các
vị sắp đọc những bản án rất nghiệt ngã đối với
những người mà các vị thừa biết là vô tội. Các vị
có xét xử theo luật pháp và lương tâm không? Hay một
cách giản dị hơn, các vị có thực sự xét xử không
hay chỉ đọc những bản án đã được quyết định
trước? Xin để các vị tự trả lời. Tôi chỉ nói với
các vị rằng dân tộc Việt Nam sẽ có tự do và công lý
trong một tương lai không xa. Chúc các vị bình an".
Chuẩn
bị tinh thần cho khả năng bị bắt và bị ra tòa là điều
mà mọi anh em dân chủ trong nước phải làm vì trong tình
thế hiện nay ai cũng có thể mắc nạn và chính quyền
hung bạo này không thiếu những biện pháp để gây áp
lực trên các nạn nhân cũng như gia đình họ. Họ hành
hạ và đe dọa cũng như dụ dỗ và hứa hẹn, trong khi
sức chịu đựng của mỗi người chỉ có giới hạn.
Trường hợp Nguyễn Văn Đài và Lê Thu Hà chắc chắn đã
phải khiến mọi người đau lòng. Họ không kháng án vì,
sau hai năm rưỡi, họ không còn chịu đựng nổi tình
trạng tạm giam nữa và muốn được chuyển sang một nhà
tù bình thường.
Còn
các luật sư?
Trong
phiên tòa sơ thẩm xử sáu anh em trong Hội Anh Em Dân Chủ
vừa qua một luật sư đã nói trước tòa rằng họ đã
bị xét xử vì thành lập Hội Anh Em Dân Chủ nhưng quyền
lập hội (đáng lẽ phải gọi là quyền
tự do kết hợp
mới đúng vì đó là quyền kết hợp với nhau để thành
lập các tổ chức dưới mọi dạng không nhất thiết
phải là hội) đã được nhìn nhận trong hiến pháp. Đại
diện Viện Kiểm Sát đã phản bác rằng quyền này tuy có
trong hiến pháp nhưng vì chưa có quy định của luật pháp
nên coi như chưa có. Và luật sư đã im lặng.
Thật
là đáng ngạc nhiên vì ít nhất hai lý do. Thứ nhất là
cho tới nay phần lớn những người bị đem xét xử trong
các vụ án chính trị cũng chỉ làm những điều mà rất
nhiều người đã làm, họ bị bắt và bị đưa ra tòa
chỉ vì dưới mắt chính quyền cộng sản họ đã hoạt
động có tổ chức, dù chỉ là những tổ chức xã hội
dân sự lỏng lẻo. Đấu tranh có tổ chức là điều chế
độ này sợ nhất. Như vậy tranh luận về quyền kết
hợp phải là chủ đề cốt lõi trong các vụ án chính
trị và trong phong trào dân chủ nói chung. Tại sao cho đến
nay chưa có luật sư nào nêu ra trong các phiên tòa?
Lý
do thứ hai là tại sao vị luật sư nêu ra quyền kết hợp
trong phiên tòa vừa rồi –xin hoan hô và cảm ơn- lại im
lặng sau khi nhận được câu trả lời ngu xuẩn của đại
diện Viện Kiểm Sát? Câu trả lời này chứng tỏ anh
"công tố viên" này chẳng hiểu gì về luật. Anh
ta chỉ là một công an làm phận sự đàn áp những người
phản kháng.
Các
bạn tôi, những người hiểu rõ tình hình trong nước,
giải thích rằng đó là vì đa số khối hơn 15.000 luật
sư Việt Nam không hiểu gì nhiều về luật mà chỉ là
những người chạy án, một số nhỏ hiểu những không
dám nói ra. Thiếu kiến thức hoặc thiếu can đảm hoặc
cả hai. Họ có thể có lý. Sự kiện nhiều luật sư Việt
Nam không hiểu luật là điều đáng buồn nhưng có thực.
Bằng chứng là một luật sư khá nổi tiếng đã từng
viết trên Facebook của mình rằng luật ở dưới chính
trị vì, theo ông này, luật do chính trị làm ra và quyền
tự do biểu đạt, hay tự do ngôn luận, phải ở dưới
lợi ích quốc gia. Những sai lầm cơ bản này -mà một
sinh viên năm thứ nhất trường luật, thậm chí một học
sinh trung học, cũng không thể phạm- lại có thể do một
luật sư nói ra và còn được một số đồng nghiệp ủng
hộ thì quả thực là không tưởng tượng nổi. Như vậy
thì phải nhắc lại những điều có thể coi là hiển
nhiên.
Không
có gì cao hơn luật. Điều này chính ĐCSVN, mà văn hóa
nền tảng là coi thường sự thật và luật pháp, cũng
phải nhìn nhận. Trong điều 4, điều thô lỗ nhất của
bản hiến pháp thô lỗ 2013, họ cũng phải viết: "Mọi
tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật". Tại sao? Đó là vì luật là cố gắng thể hiện lẽ phải
trong xã hội và không có gì cao hơn lẽ phải. Ngay cả
thượng đế mà sai cũng không cần tuân theo. Và vì quyền
là nền tảng của luật nên quyền cũng ở trên tất cả
và không thể thỏa hiệp. Trong nhiều ngôn ngữ "quyền"
cũng có nghĩa là "luật". Thí dụ như trong tiếng
Pháp chữ ""droit" vừa có nghĩa là "quyền" vừa có nghĩa là "luật".
Những quy định của luật pháp chỉ có mục đích duy
nhất là để việc sử dụng một quyền của người này
không gây thiệt hại cho một quyền nào đó của người
khác. Khi không có một quy định cho một quyền đặc biệt
nào đó, như trong trường hợp quyền kết hơp tại Việt
Nam, thì điều này chỉ có nghĩa là không có một giới
hạn nào trong việc hành xử quyền này cả, trừ khi trong
khi hành xử quyền này người ta vi phạm những quy định
đã có sẵn trong hơn 200 bộ luật hiện có, như luật
hình sự, luật thương mại, luật lao động v.v. Một tổ
chức và những người điều hành nó chỉ có thể bị
chế tài nếu vi phạm một điều khoản nào trong các luật
này nhưng việc thành lập một tổ chức tự nó không vi
phạm một quy định nào cả. Vả lại nếu cần một quy
định hướng dẫn việc thành lập các hội đoàn mà sau
mấy chục năm vẫn chưa có thì đó là lỗi của chính
quyền. Một quyền không bao giờ có thể bị coi là chưa
có. Quyền kết hợp là một trong những quyền tự nhiên
không cần một sự nhìn nhận chính thức nào cả nhưng
đã được nhìn nhận hai lần một cách chính thức và
long trọng đối với Việt Nam; một lần trong hiến chương
Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam phải tôn trọng trong tư cách
thành viên và một lần ngay trong hiến pháp CHXHCNVN. Nguyên
tắc của luật là những gì luật không cấm người dân
có quyền làm; việc thành lập các tổ chức tại Việt
Nam không những không bị cấm mà còn được chính thức
và long trọng nhìn nhận, do đó không thể là lý do để
buộc tội bất cứ ai. Điều này phải được nói ra thật
minh bạch, trước hết bởi các luật sư.
Một
điểm quan trọng khác cần được đặc biệt chú ý là
ai có quyền quyết định một người hay một nhóm người
đã vi phạm điều khoản nào trong các luật hiện có? Cho
tới nay trong tất cả các vụ án chính trị kết luận
các bị cáo đã vi phạm điều 79, 88, 258 đều được nói
là do một "ban giám định" mà không ai biết có
thực hay không. Đọc các bản cáo trạng thì thấy ban
giám định này chỉ dựa trên những sự kiện mà ai cũng
có quyền làm và nhiều người đã làm như viết bài trên
Facebook, trả lời phỏng vấn v.v để kết luận rằng các
bị cáo đã phạm pháp mà không hề dẫn chứng điều gì
trong các bài viết và phỏng vấn này đã vi phạm cái gì
và tại sao. Cũng vớ vẩn như nếu thấy một người đưa
con đi học rồi kết luận rằng như thế là có đủ bằng
chứng rằng người đó đã lên mặt trăng. Ban giám định
này không hề gửi báo cáo giám định và đối chất với
các bị cáo và luật sư của họ. Họ cũng không có mặt
trong các phiên tòa để trả lời những chất vấn. Như
vậy những kết luận của ban giám định này hoàn toàn
vô giá trị. Dầu vậy chúng đã được dùng để tuyên
những bản án 10 hay 15 năm tù. Tại sao chưa thấy luật
sư nào nêu lên điểm này?
Đã
thế một số luật sư còn khuyên, hoặc gợi ý, các nạn
nhận tội và xin khoan hồng. Ho đứng về phía tội ác
thay vì lẽ phải, tiếp tay cho kẻ đàn áp thay vì bảo vệ
người vô tội đồng thời cũng là thân chủ của họ.
Phải nói dứt khoát: trong các vụ án thô bạo này các
luật sư là phải nói thân chủ của mình hoàn toàn vô
tội, phải được trả tự do ngay tức khắc và phải
được bồi thường thiệt hại. Lẽ phải bao giờ cũng
cần được nói ra, ngay cả trong thế yếu. Và thực ra
các luật sư vẫn có thể nói những gì cần nói mà không
thể bị cáo buộc là khiêu khích hay thách thức. Vấn đề
là họ không nghĩ đến việc nói ra những điều phải
được nói ra và do đó cũng không tìm cách nói thich hợp.
Nghề
luật sư không phải chỉ là một nghề để sinh sống bởi
vì nó có quan hệ mật thiết và trực tiếp với giá trị
cao nhất trong mọi giá trị: lẽ phải. Nó là một nghề
trong đó đạo đức nghề nghiệp có vai trò đặc biệt
quan trọng, tương tự như nghề y sĩ. Một luật sư thấy
thân chủ mình vô tội mà không dám biện luận cũng không
khác một thầy thuốc biết bệnh nhân của mình cần một
thứ thuốc để sống mà không cho. Đó là một vi phạm
đạo đức nghề nghiệp rất lớn, càng lớn vì không ai
bị bắt buộc phải chọn nghề luật sư.
Nghề
luật sư có hai sứ mệnh nghề nghiệp chính. Một là bảo
vệ lẽ phải thông qua việc bảo vệ thân chủ. Hai là,
cũng như các nghề luật nói chung, đóng góp để luật
pháp ngày càng thể hiện lẽ phải một cách trung thực
hơn. Cho tới nay đã có luật sư nào lên tiếng về điều
4 xấc xược của hiến pháp? Đã có luật sư nào lên
tiếng về các điều 79, 88, 258 vớ vẩn, tùy tiện và ác
độc của bộ luật hình sự? Phải nói là rất đáng
buồn, vì đó là một bắt buộc nghề nghiệp của họ.
Một
liên minh cần thiết và tự nhiên
Từ
nhiều năm qua những người dân chủ đã đấu tranh và bị
bách hại. Họ đã được sự tăng viện của nhiều thành
phần dân tộc, văn nghệ sĩ, nhà báo, tôn giáo, dân oan,
ngư dân và cả một sồ đảng viên cộng sản kỳ cựu
trong đó có những người đã giữ những chức vụ quan
trọng. Trừ các luật sư. Liên minh giữa những người
dân chủ và các luật sư đáng lẽ phải tự nhiên và tự
động bởi vì nếu nhìn kỹ thì các luật sư là thành
phần bị ức hiếp nhất trong chế độ toàn trị này.
Nhưng đó có lẽ cũng chính là lý do khiến họ thụ động
và bất động. Không phải đã không có những luật sư
tham gia tranh đấu cho dân chủ. Trần Lâm, Lê Thị Công
Nhân, Lê Công Định và dĩ nhiên Nguyễn Văn Đài là những
thí dụ. Còn có những người khác. Tuy nhiên tất cả
những người này không tranh đấu trong cương vị luật
gia mà như những người Việt Nam bình thường. Điều này
chứng tỏ giới luật sư đã thụ động đến độ mà
ngay cả những đồng nghiệp cũng thất vọng. Sự thụ
động của giới luật sư một đặc tính của các chế
độ cộng sản còn lại. Chủ nghĩa cộng sản chỉ coi
luật pháp như một dụng cụ thống trị. Nghề luật sư
trong các nước cộng sản chỉ mới xuất hiện gần đây,
khi phong trào cộng sản thế giới bắt đầu sụp đổ và
các chế độ cộng sản còn lại bắt buộc phải thỏa
hiệp với thế giới dân chủ. Các luật sư Việt Nam vì
vậy còn mới trong nghề và không được hưởng di sản
của các đàn anh. Đã thế chế độ còn coi giới luật
sư như là một mối nguy và kiểm soát rất gắt gao, chỉ
chấp nhận cho hành nghề luật sư những người mà họ
đánh giá là không nguy hiểm, những người vừa không có
ý định vừa không có khả năng phản kháng. Nếu có
những luật sư "không tốt", nghĩa là không đáp
ứng tiêu chuẩn này thì họ tìm mọi lý cớ để loại
ra, như trường hợp luật sư Võ An Đôn.
Hậu
quả của chính sách kìm kẹp này là giới luật sư thực
ra là thành phần bị chèn ép nhất. Họ không giầu có và
cũng không có tự do. Đã thế còn gần như bị quản chế
trong sinh hoạt nghề nghiệp và bị bắt buộc phải phản
bội hàng ngày ngay chính đạo đức nghề nghiệp của
mình. Tình trạng này không thể kéo dài khi Việt Nam đã
mở cửa ra thế giới. Các luật sư đang khám phá ra rằng
chính họ là những người cần dân chủ pháp trị nhất.
Lý do khiến họ thụ động –vì bị trói buộc- sẽ dần
dần trở thành lý do thôi thúc họ tham gia cuộc vận động
dân chủ. Lúc đó tình hình sẽ thay đổi nhanh chóng.
Kinh
nghiệm các cuộc đấu tranh cho dân chủ trên thế giới
cho thấy chúng thường diễn ra theo một kịch bản quen
thuộc. Mới đầu là một số trí thức lãng mạn đấu
tranh vì một lý tưởng mà họ thấy là đúng và đẹp.
Những con người ít ỏi này gần như cô đơn và chịu
rất nhiều cay đắng trong nhiều năm. Hy vọng bắt đầu
ló dạng khi họ lôi kéo được một thành phần xã hội
khác, các văn nghệ sĩ và các nhà báo. Đây là những
người cũng ít nhiều lãng mạn, có nhu cầu phát biểu và
cũng có nhiều tài năng phát biểu nhất trong xã hội, do
đó cần tự do để phát biểu và sáng tạo. Sự nhập
cuộc của họ khiến cuộc vận động dân chủ trở thành
sôi nổi hơn và kéo theo thành phần kế tiếp: các luật
sư, những người mà nghề nghiệp là bảo vệ công lý
nhưng lại bị bắt buộc phải tiếp tay chà đạp công
lý, nghĩa là phản bội lương tâm và nghề nghiệp của
chính mình, với kết quả là họ vừa bị chính quyền ức
hiếp vừa bị xã hội coi thường, lại cũng không giầu
vì nghề của mình không lớn lên được. Mặt khác họ
lại có khả năng đóng góp lớn cho cuộc đấu tranh dân
chủ vì hiểu biết cơ chế vận hành của xã hội và có
thể phản bác một cách chính xác và thuyết phục. Khối
luật sư là một trái bom nổ chậm trong lòng các chế độ
chà đạp nhân quyền. Sự nhập cuộc của họ sẽ là một
bước đột phá lớn cho cuộc vận động dân chủ. Sau đó
sẽ đến lượt các ngành nghề khác. Rồi khi thanh niên,
sinh viên và học sinh đứng dậy thì giờ cáo chung của
chế độ độc tài đã đến.
Hiện
nay giới nhà báo và văn nghệ sĩ đã nhập cuộc khá đông
đảo, ít nhất đủ để khiến thành phần "trung với
Đảng" trở thành vớ vẩn. Bao giờ đến lượt các
luật sư?
Những
con én đầu tiên báo hiệu mùa xuân đã xuất hiện. Người
ta đã có thể nhận diện được hơn mười người. Còn
rất ít so với con số trên 15.000 luật sư nhưng chắc
chắn sẽ còn nhiều người khác. Một đốm lửa nhỏ
trong một đám củi khô có thể bùng lên rất nhanh chóng.
Một
lời sau cùng. Tôi không biết gì nhiều về luật sư Võ
An Đôn, về khả năng cũng như về thân thế và cuộc
sống riêng tư của anh. Điều tôi nhận xét là anh đã là
người luật sư đầu tiên đứng lên phản kháng với tư
cách một luật sư. Xin cảm ơn anh và xin tặng anh một
bông hồng.
Nguyễn Gia Kiểng
(01/6/2018)