Trí thức và lãnh đạo (Nguyễn Huy Vũ)
Trong bảng xếp hạng mức hạnh phúc quốc gia (World Happiness Report) công
bố năm 2017 của 155 nước, người Việt Nam đứng thứ 94, ngang ngửa với
vài nước châu Phi, thấp hơn cả Somalia (hạng 93) (*) — một nước cho tới
gần đây bị tàn phá vì nội chiến, mất an ninh trật tự và đói nghèo khiến
nó trở thành một cứ điểm của tội phạm cướp biển.
Khi
một lãnh đạo cộng sản qua đời, để ý ta sẽ thấy có những loạt bài của
những người, tạm gọi là trí thức, tâng bốc công lao những lãnh đạo này.
Thấy đau cho dân tộc. Nó giống như cảnh những con người bị xích vào cái
lồng cộng sản làm nô lệ bởi một nhóm người tự cho mình là lãnh đạo, để
rồi một ngày nào đó, một lãnh đạo nào đó nới lỏng sợi dây xích, cho đám
nô lệ kia hưởng thêm được một chút tự do trong tinh thần và vật chất thì
đám nô lệ sướng rơn, nhẩy cẫng lên tâng bốc ngài lãnh đạo nọ, mà họ
quên rằng những đau khổ gây ra cho chính họ, ông bà, cha mẹ, con cái họ,
và cả dân tộc này, là những người như ngài lãnh đạo nọ và đồng chí của
họ.
Tội cho dân tộc đã sinh ra những con người đan tâm ngồi trên đầu
trên cổ làm khổ dân tộc, mà cũng tội cho dân tộc có quá ít người dám nói
tiếng nói bộc trực, dứt khoát, rằng đã sang thế kỷ 21 rồi, Việt Nam
phải là một nước tự do và dân chủ, và người dân Việt Nam phải được tự do
bầu chọn lên các lãnh đạo dẫn dắt đất nước mình, chứ không phải ngồi đó
khen những ông chủ cộng sản với tư cách là
những-người-đang-ở-trọ-trên-quê-hương. Người Việt Nam xứng đáng với điều
đó, họ phải có quyền quyết định tương lai của đất nước và vận mệnh của
họ thông qua việc chọn ra những lãnh đạo một cách tự do, và những ai góp
phần duy trì sự cai trị thiếu tự do của thể chế cộng sản hiện nay đáng
lẽ ra phải bị lên án chứ không phải để kể công.
Đọc những lời tâng bốc của vài người dành cho các lãnh đạo, bạn sẽ có
cảm giác rằng Việt Nam “sắp lên thiên đường” vì lãnh đạo tài quá.
Nhưng, hãy nhìn lại thực tại, dưới sự lãnh đạo của các lãnh đạo cộng sản
này, Việt Nam hiện nay đang ở đâu và người Việt Nam sướng khổ thế nào?
Trong bảng xếp hạng mức hạnh phúc quốc gia (World Happiness Report) công
bố năm 2017 của 155 nước, người Việt Nam đứng thứ 94, ngang ngửa với
vài nước châu Phi, thấp hơn cả Somalia (hạng 93) (*) — một nước cho tới
gần đây bị tàn phá vì nội chiến, mất an ninh trật tự và đói nghèo khiến
nó trở thành một cứ điểm của tội phạm cướp biển. Trong xếp hạng 190 quốc
gia dựa trên tổng thu nhập quốc gia trên đầu người (GDP per capita),
Việt Nam hiện nay đứng thứ 134 (**). Các chỉ số xếp hạng chỉ là một sự
khái quát hoá tương đối tình trạng của người dân Việt Nam hiện nay khi
vật giá và thuế má ngày càng tăng cao, thất nghiệp trở nên lan tràn, môi
trường ngày càng ô nhiễm, tự do ngày càng bị bóp nghẹt khiến nhiều
người từ trí thức đến bình dân tìm cách này cách khác bỏ xứ ra đi vì cảm
thấy bế tắc.
Nhiều người nhìn các lãnh đạo cộng sản với vài đóng góp cỏn con như là một thành tích gì ghê gớm.
Trừ những kẻ vô dụng, một lãnh đạo tầm thường nhất cũng có cái để
khen, đơn giản là khi lãnh đạo chẳng làm gì cũng có cái để khen vì
laissez-faire, tức đừng can thiệp, để thị trường tự nó hoạt động tự bản
thân nó đã là một chính sách -- chính sách không can thiệp. Và khi một
lãnh đạo không can thiệp thì chí ít thị trường và xã hội sẽ tự điều tiết
với nhau để duy trì và phát triển, như bản thân nó vốn có từ hàng nghìn
năm dù có lãnh đạo hay không. Có điều, sự can thiệp nếu có dưới sự lãnh
đạo khôn ngoan sẽ khiến giảm bớt gánh nặng của những tai ương, như
trong các tai hoạ thiên nhiên hoặc các cuộc khủng hoảng kinh tế, và thúc
đẩy những thành công mới như việc huy động nhân lực và vật lực nhằm xây
dựng những công trình hay dự án vượt quá khả năng của tư nhân, như các
dự án cơ sở hạ tầng lớn hoặc các công trình về an ninh quốc phòng. Các
lãnh đạo tài ba cũng có thể thông qua các hệ thống thuế khoá bảo vệ và
hỗ trợ vài ngành công nghiệp, dịch vụ, thực hiện các hệ thống an sinh xã
hội giúp đời sống người dân ngày càng thoải mái hơn so với việc để
người dân tự xoay sở. Nói như vậy để thấy rằng trừ khi đừng làm những
hành động ngu xuẩn và điên cuồng, như phá huỷ hệ thống kinh tế tư nhân ở
miền Nam hay đóng cửa nền kinh tế sau năm 1975, bản thân xã hội khi
được tự do sẽ tự nó phát triển và ngài lãnh đạo sẽ được ghi nhớ cho sự
phát triển đó dưới khoảng thời gian trị vì của mình dù ông ta chẳng phải
làm gì hết, ngoại trừ việc duy trì trật tự và đảm bảo công bằng xã hội.
Sự chuyển đổi sang dân chủ từ các nước không có truyền thống dân chủ
rất khó khăn. Một phần của sự khó khăn đó xuất phát từ thói quen phục
tùng bị trị: thói quen của một tầng lớp bị trị quanh năm suốt tháng dạ,
vâng, bẩm, thưa, và tâng bốc vài thành tích của những kẻ cai trị. Thói
quen này khiến cho nhiều người quên mất rằng đất nước này là của chung
và mọi người công bằng với nhau, những lãnh đạo phải được dân bầu cử tự
do chọn lên và đưa xuống bằng lá phiếu và sự tự nguyện của mình.
Chỉ khi
từ các trí thức tới tầng lớp bình dân ý thức dứt khoát được rằng các
lãnh đạo quốc gia phải được bầu chọn bằng lá phiếu và khước từ tất cả sự
cầm quyền không qua lá phiếu tự do thì lúc đó đất nước mới có triển
vọng sang trang.
Nguyễn Huy Vũ (18.3.2018)
Dân Luận