Đồng bằng Cửu Long trước những tác động của con người (Thanh Phương)
Đồng bằng sông Cửu Long, với tổng cộng 13
tỉnh, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của cả nước. Tính đến
tháng 04/2017, đồng bằng sông Cửu Long đóng góp 54% sản lượng lúa, 70%
lượng thủy sản nuôi trồng, 36,5% lượng trái cây, cung cấp 90% sản lượng
lúa gạo xuất khẩu và 65% sản lượng thuỷ sản xuất khẩu của cả nước.
Tuy
nhiên, đồng bằng sông Cửu Long đã và đang đối đầu với ba thách thức lớn
mang tính sống còn: Thứ nhất, tác động của biến đổi khí hậu và nước
biển dâng. Thứ hai, quá trình phát triển nội tại. Thứ ba, tác động do
khai thác và sử dụng nước của các quốc gia ở thượng nguồn.
Nhìn
chung, những thách thức mà đồng bằng sông Cửu Long đang đối phó là do
tác động của con người hơn là do tác động của biến đổi khí hậu. Hôm nay,
xin mời quý vị nghe phần phỏng vấn tiến sĩ Huỳnh Long Vân, thuộc Nhóm
Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai-Cửu Long, Úc châu, về vấn đề này:
RFI :Thưa
ông Huỳng Long Vân, trước hết về tác động của khai thác và sử dụng nước
của các quốc gia ở thượng nguồn, có mối liên quan nào giữa tình trạng
sạt lở trầm trọng của bờ biển đồng bằng sông Cửu Long và các đập thủy
điện của Trung Quốc?
TS Huỳnh Long Vân: Hiện
nay, trên dòng chính sông Mekong có 8 hồ chứa thủy điện, 7 của Trung
Quốc và 1 của Lào. Đồng bằng sông Cửu Long nhận khoảng 89% khối lượng
nước từ thượng nguồn, và 160 triệu tấn phù sa/năm, trong đó 50% là phù
sa thô. Phù sa thô là vật liệu chắn sóng bảo vệ vùng ven biển chống sạt
lở và bồi lấp đồng bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, kể
từ khi các đập thủy điện của Trung Quốc vận hành, khối lượng phù sa thô
này hoàn toàn bị giữ lại ở các hồ chứa nước, khiến cho dọc theo bờ biển
đồng bằng sông Cửu Long hiện nay có 49 điểm/266km bị sạt lở nghiêm trọng
và mỗi năm đồng bằng sông Cửu Long mất khoảng 500 ha đất.
Về
sạt lở bờ sông, theo Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, miền Tây
hiện có 513 điểm sạt lở, với tổng chiều dài 520 km, đe dọa cuộc sống
hàng nghìn hộ dân cùng nhiều công trình hạ tầng. Tác động xói mòn của “dòng nước đói phù sa”
và việc khai thác cát ở các lòng sông là nguyên nhân chính gây ra sạt
lở các bờ sông. Và sạt lở dọc theo các kinh, rạch là do vận chuyển của
các ghe thuyền trang bị các động cơ quá mạnh.
RFI : Vậy thì, thưa ông Huỳnh Long Vân, chúng ta phải có những giải pháp ứng phó như thế nào với tình trạng sạt lở đó?
TS Huỳnh Long Vân :
Đối với sạt lờ bờ biển, ta có thể thiết lập hàng rào phá sóng bằng
những vật liệu rắn chắc như các trụ cột, các khối đá hoặc bê tông, đồng
thời tái tạo, phục hồi rừng ngập mặn. Đối với sạt lở bờ sông, phải chấm
dứt tệ nạn khai thác cát trái phép, không đúng quy hoạch. Đối với sạt lở
kinh rạch, phải cấm ghe máy sử dụng các động cơ mã lực cao.
RFI :Đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay còn gặp tình trạng bị sụt lún. Vậy thì
nguyên nhân là vì sao và phải có giải pháp nào để ngăn chận tình trạng
đó ?
TS Huỳnh Long Vân : Kết quả nghiên cứu của dự án “ Rise and Fall” tại
đồng bằng sông Cửu Long, do Đại học Cần Thơ phối hợp với Đại học
Utrecht (Hà Lan) thực hiện, cho thấy sự sụt lún của đồng bằng sông Cửu
Long là vấn đề đáng lo ngại. Nguyên nhân là do việc khai thác nước ngầm
thiếu kiểm soát và quá trình đô thị hóa. Riêng ở Cà Mau - tỉnh ngày đêm
khai thác hơn 400.000 m3 nước ngầm, theo nghiên cứu của các
chuyên gia thuộc Viện Địa Kỹ Thuật Hoàng Gia Na Uy, nền đất của tỉnh Cà
Mau mỗi năm sụt lún 1.56-2.3cm và mảnh đất ở phần cuối của lãnh thổ Việt
Nam có nguy cơ biến mất trong vài thập niên nữa.
Dưới
tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng khoảng 3mm/năm, trong khi
ở nhiều nơi vùng nông thôn của đồng bằng sông Cửu Long, mức độ sụt lún
khoảng 10-20mm/năm. Riêng khu vực thành thị và ở các khu công nghệ, mức
độ sụt lún khoảng 25mm/năm. Sụt lún còn có tác động cộng hưởng với việc
mất nguồn phù sa thô, khiến cho bờ biển bị sạt lở trầm trọng hơn, mất
rừng, nước mặn xâm nhập sâu vào nội vùng, các sông và các tầng nước
ngầm. Riêng đối với tỉnh Cà Mau, nếu để tình trạng sạt lở sụt lún tiếp
tục như hiện nay, mỗi năm có thể mất đến 90.000ha .
Để
ngăn chặn tình trạng sụt lún ở đồng bằng sông Cửu Long, các chuyên gia
đều đồng ý là cần có biện pháp hạn chế khai thác nguồn nước ngầm và đưa
ra những đề xuất như sau:
Ở vùng thượng nguồn châu thổ
(Đồng Tháp, Khu Tứ Giác Long Xuyên..), có nguồn nước mặt dồi dào, nên
có thể xây dựng các hồ trử nước trong mùa lũ, giảm sản xuất lúa vụ 3 và
giảm xây dựng đê bao để vừa giữ được nước mặt, vừa bổ cập cho nước ngầm.
Ở
vùng giữa của châu thổ với các đô thị như Cần Thơ, Long An, Mỹ Tho,
Vĩnh Long, phải triệt để cấm khai thác nước ngầm, đồng thời khuyến khích
các doanh nghiệp trang bị công nghệ tái sử dụng nước thải sau khi đã
được xử lý.
Ở vùng ven biển, cần xây dựng các hồ chứa
nước mưa, kết hợp với việc xây dựng các đường ống dẫn nước ngọt từ khu
vực thượng nguồn châu thổ.
Được biết, tỉnh Cà Mau đang
triển khai kế hoạch xây dựng các hồ chứa nước ngọt, có diện tích từ 200
ha đến 300 ha. Bên cạnh đó, địa phương cũng dự kiến tận dụng một số các
tuyến sông, kinh, rạch để tích trữ nước ngọt phục vụ sản xuất. Bến Tre
cũng đã tiến hành xây các hồ chứa nước ngọt có dung tích 1 triệu m3.
Chính phủ cũng đang tiến hành kế hoạch đầu tư 1.7 tỷ đôla và o dự án cung cấp 200.000-300.00 m3/ngày đêm nước ngọt, lấy từ sông Hậu cung cấp cho 7 tỉnh thành của miền Tây sông Hậu.
Ngoài
ra, hiện nay công nghệ biến nước mặn thành ngọt bằng những kỹ thuật
Nano và Reverse Osmosis tương đối rẻ tiền, nên thiết nghĩ đây cũng là
một giải pháp khả thi cần được lưu ý.
RFI:Riêng
Cần Thơ thì hiện nay bị ngập vào mùa nước nổi. Tác động của các đê bao
là như thế nào ? Vì sao Cần Thơ và các thành phố khác bị ngập khi có mưa
to ?
TS Huỳnh Long Vân : Các đê
bao ở Đồng Tháp và khu Tứ giác Long Xuyên được xây dựng để ngăn chận
nước lũ tràn vào ruộng đồng của vùng này giúp canh tác lúa vụ 3. Kế
hoạch này dẫn đến hậu quả tai hại là gần như toàn bộ khối nước lũ theo
sông Tiền và sông Hậu đổ xuống các vùng phía dưới như Cần Thơ, Sóc
Trăng, Long An, Vĩnh Long. Những tỉnh thành này vốn có nền đất rất thấp
so với mặt biển và không được bao che bởi các bờ đê, nên nước lũ tràn bờ
ngập phủ nhiều tuyến đường trong thành phố, đặc biệt ở những nơi gần
các kinh rạch.
Ở Cần Thơ vào tháng 09 và 10 vừa qua,
mực nước sông Hậu đã lên cao đến 1,90m, mức báo động 3, cùng lúc với
triều cường, nên một số tuyến đường như các đường 30 Tháng 4, Châu Văn
Liêm, Mậu Thân ở quận Ninh Kiều, đường Bùi Hữu Nghĩa, ở quận Bình Thủy
bị ngập nước (mặc dù mặt đường đã được nâng cao nhiều lần với các lớp
nhựa), khiến xe cộ ì ạch, cư dân bì bõm trong nước. Riêng ở Sóc Trăng,
nông dân phải đốn mía dù còn non, để tránh bị ngập úng.
Trong
tháng 09 vừa qua, tại Hội nghị thảo luận chiến lược chuyển đổi mô hình
sản xuất nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long để thích ứng với biến đổi
khí hậu, tổ chức tại Cần Thơ, thủ tướng đã đồng ý cấp ngân khoản để kiện
toàn, nâng cao khả năng xả lũ của đập Trà Sứ và khuyến cáo giảm dần
canh tác lúa vụ 3. Ngoài ra, được biết thành phố Cần Thơ cũng có dự án
đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải và ứng phó với tình trạng
ngập úng ở hai quận Ninh Kiều và Bình Thủy.
Ngoài ảnh
hưởng của đê bao, thành phố Cần Thơ và một số nơi khác như ở thành phố
Hồ Chí Minh, mỗi khi có mưa lớn, một số nơi trong thành phố cũng bị ngập
nước. Nguyên nhân là do hệ thống thoát nước cũ kỹ hay quá sơ sài; ngoài
ra cũng do một số kinh rạch, vốn là nơi nước rút, nay được lấp đất để
làm mặt bằng trong kế hoạch đô thị hóa; mở rộng và xây thêm đô thị dàn
trải, khiến một diện tích lớn đất đai bị xi măng hóa, nên việc thoát
nước bị chậm lại. Tình trạng ngập nước này trở nên tồi tệ hơn nếu xảy ra
cùng lúc với triều cường.
RFI: Trước những tác động của biến đổi khí hậu và việc Thái Lan chuyển dòng nước sông Mêkông
và Cam Bốt cũng có ý định muốn sử dụng nguồn nước ở Biển Hồ để gia tăng
sản xuất nông nghiệp, đồng bằng sông Cửu Long phải có kế hoạch ứng phó
như thế nào trước tình trạng sẽ thiếu nước trầm trọng vào mùa khô?
TS Huỳnh Long Vân : Thái Lan định làm dự án Khon-Loei-Chi-Mun để hàng năm chuyển 4,5 tỉ m3
nước từ sông Mekong qua sông Loei, để tưới vùng Đông Bắc. Cam Bốt cũng
rục rịch muốn sử dụng khối nước ở Biển Hồ để mở rộng diện tích canh tác
nông nghiệp.
Trước đây, vào năm 1989, Thái Lan đã
triển khai, nhưng thất bại, một dự án tương tự để chuyển nước sông
Mekong, trong kế hoạch gia tăng sản xuất nông nghiệp ở khu vực Isaan,
miền Đông Bắc Thái Lan. Còn ý định của Cam Bốt hiện còn trong giai đoạn
thai nghén.
Tuy nhiên, thiết nghĩ nhà chức trách
Việt Nam cũng nên tiến hành xây dựng các hồ chứa nước, để ứng phó với
tình trạng thiếu nước trầm trọng có thể xảy ra trong tương lai và xem
đây như một “biện pháp không hối tiếc”, nghĩa là nếu kế hoạch
của Thái Lan một lần nữa thất bại và Cam Bốt từ bỏ ý định của mình, thì
việc xây dựng các hồ chứa nước cũng sẽ góp phần đáng kể vào giải pháp
ứng phó với tình trạng sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long do việc khai
thác nước ngầm quá đáng. Và trước những toan tính này của hai quốc gia
láng giềng, việc giảm dần canh tác lúa vụ 3 để tiết kiệm nước cũng là
điều phải dứt khoát.
RFI: Biến
đổi khí hậu, nước biển dâng cao, tình trạng ngập úng ở vùng Đồng Tháp,
Tứ Giác Long Xuyên sẽ trầm trọng hơn và nước mặn sẽ lấn sâu vào nội địa
khiến diện tích canh tác giảm dần. Vậy phải có giải pháp nào để sản xuất
và cuộc sống người dân không bị ảnh hưởng hoặc tồi tệ hơn ?
TS Huỳnh Long Vân: Ngày
17/11/2017, thủ tướng chính phủ CHXHCN Việt Nam đã ban hành nghị quyết
120/NQ-CP, công bố chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển đồng bằng
sông Cửu Long ứng phó với biến đổi khí hậu. Chiến lược này xác định biến
đổi khí hậu và nước biển dâng cao là xu thế tất yếu, một thách thức lớn
lao đối với đồng bằng sông Cửu Long và vạch ra đường hướng phát triển
kinh tế đồng bằng sông Cửu Long trong tương lai, bao gồm hai tiểu vùng
nêu ra trong câu hỏi trên.
Nghị quyết còn nhấn mạnh
là việc phát triển đồng bằng sông Cửu Long phải phù hợp với điều kiện
thực tế, và trong quy hoạch không chỉ có nước ngọt, mà nước lợ, nước mặn
cũng được xem là nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế.
Và
nghị quyết120/NQ-CP đưa ra một số giải pháp tổng thể, trong đó có phần
thúc đẩy phát triển kinh tế và xây dựng đô thị thích hợp với các tiểu
vùng sinh thái:
Vùng ngập sâu (Đồng Tháp và một phần
của khu Tứ giác Long Xuyên) trở thành vùng quản lý ngập và trữ nước
ngọt, nhằm chủ động cung cấp nước ngọt cho toàn thể châu thổ; diện tích
lúa vụ 3 sẽ được giảm dần và lối sản xuất nông nghiệp độc canh, tăng sản
lượng lúa gạo sẽ được chuyển sang luân canh với các loại cây trồng,
thủy sản khác để tận dụng nước lũ ; hoàn chỉnh các công trình xây dựng
những cụm dân cư vượt lũ và phát triển đô thị ở tiểu vùng này được hạn
chế.
Vùng sinh thái nước ngọt (nằm giữa sông Tiền,
sông Hậu và Tây sông Hậu) là vùng sản xuất nông nghiệp (lúa, trái cây và
hoa màu…). Đây là tiểu vùng thuận lợi cho phát triển đô thị, nhưng
không dàn trải, để dành đất nông nghiệp màu mở cho sản xuất.
Vùng
ven biển (ven biển Đông, biển Tây và bán đảo Cà Mau là vùng có những
chuyển đổi, sẽ mở rộng nuôi trồng thủy sản nước lợ trong điều kiện nước
mặn xâm nhập, gắn với trồng rừng ngập mặn, và phát triển luôn cả ngành
nuôi hải sản ở vùng biển ngoài khơi (nuôi trồng rong biển, cá biển, tôm
hùm, ..). Việc mở rộng đô thị ở vùng này cũng cần hạn chế, để giảm rủi
ro do thiên tai gây ra bởi biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Giải
pháp nêu trên không can thiệp thô bạo vào điều kiện tự nhiên, không xây
dựng các đê biển bao bọc toàn bộ vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long,
như ở Hà Lan, nhưng dựa vào tính đặc trưng của từng tiểu vùng để thúc
đẩy phát triển đô thị và kinh tế của mỗi khu vực, đảm bảo cuộc sống của
người dân trong châu thổ. Giải pháp này dựa theo phương châm “chủ động sống chung với lũ, với nước lợ và mặn” để biến thách thức thành cơ hội.
Còn
đối với vấn đề nước biển dâng khiến diện tích canh tác bị giảm dần thì
trong mô hình phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long ứng phó với
biến đổi khí hậu cho thấy: “kinh tế nông nghiệp” có chất lượng
cao sẽ thay thế lối canh tác nông nghiệp trước đây chú trọng đến sản
lượng để đảm bảo an ninh lương thực; những giống lúa đặc sản, cao sản sẽ
được lựa chọn và gieo gặt trên những cánh đồng lớn bằng phương tiện cơ
giới ; công nghệ chế biến thực phẩm sẽ được kết hợp để gia tăng chuổi
giá trị của sản phẩm nông nghiệp.
Như thế, mặc dù diện tích canh tác sẽ bị thu hẹp, nhưng mức thu nhập của nông dân sẽ được nâng cao.
RFI
RFI