Từ Venezuela, Zimbabwe đến Việt Nam (Việt Lữ)
Việt Nam
đang cố gắng để thoát khỏi ách độc tài toàn trị của đảng cộng sản, nhưng khi đã
thoát ra được, chúng ta nên và sẽ chọn thể chế chính trị nào để xây dựng đất
nước? Việt Nam trong tương lai, nhất định phải đoạn tuyệt chế độ tổng thống vì
Việt Nam chưa phải là nước có nền móng dân chủ...
Năm 2017,
thế giới chứng kiến sự sụp đổ nền kinh tế của hai quốc gia, Venezuela thuộc khu
vực Nam Mỹ và Zimbabwe thuộc Châu Phi. Cả hai nước đều theo chế độ tổng thống
và xây dựng đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa. Tương lai hai nước này vẫn
chưa biết đi về đâu để thoát ra khỏi bế tắc và phong trào dân chủ Việt Nam cũng
như thế.
Năm 2017
là năm mà đảng cộng sản Việt Nam ra tay đàn áp dữ dội những người lên tiếng ôn
hòa cho các hiện trạng của Việt Nam. Những bản án vô lý, phi nhân dành cho
những thành phần cần được lắng nghe và nâng đỡ nhiều nhất, đó là những người mẹ
đang có những đứa con thơ cần tình yêu ấp ủ, đó là những sinh viên nhiệt huyết
vì tương lai đất nước, đó là những người anh em ôn hòa có tấm lòng yêu thương
mảnh đất chữ S này. Chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, chị Trần Thị Nga, sinh viên Phan
Kim Khánh, sinh viên Trần Hoàng Phúc, những anh em trong Hội Anh Em Dân Chủ:
luật sư Nguyễn Văn Đài, mục sư Nguyễn Trung Tôn, ông Trương Minh Đức, ông Phạm
Văn Trội và Nguyễn Bắc Truyển, cô Trần Thị Xuân, cùng cô Lê Thu Hà bị bắt hồi
cuối tháng 12 năm 2015, đến giờ vẫn chưa xét xử.
Những bản
án nặng nề được đưa ra, những quy chụp mơ hồ về tội danh hoạt động “lật đổ
chính quyền nhân dân” hoặc “tuyên truyền chống nhà nước”…chiếu theo điều 79, 88
của Bộ Luật hình sự. Đảng cộng sản đã không bao giờ đưa ra được trước dư luận
những chứng cứ rõ ràng và cụ thể mà họ dùng để ghép tội những anh em hoạt động
xã hội dân sự ôn hòa khi buộc tội họ vi phạm điều 79, điều 88, điều 258…để
người dân phản biện và thấy được sự minh bạch của người thực thi pháp luật.
Venezuela
là một quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ, có nhiều hòn đảo nhỏ ngoài khơi biển
Caribbean, có khí nhiệt đới, có nhiều loài sinh vật và nhiều khu bảo tồn thiên
nhiên hoang dã, là vựa dầu lớn thứ ba thế giới với trữ lượng trên 291 tỷ thùng.
Diện tích nước này là 916.445 km², dân số khoảng 30 triệu người.
Venezuela
giành độc lập từ Tây Ban Nha vào năm 1821, và sau đó trải qua một giai đoạn đầy
biến động với những cuộc khủng hoảng chính trị và chế độ độc tài quân sự. Nửa
đầu thế kỉ 20, các tướng lĩnh quân đội vẫn kiểm soát nền chính trị. Từ thập
niên 1950 đến thập niên 1980, Venezuela là một trong những quốc gia có nền kinh
tế phát triển tại Mỹ Latinh. Tuy nhiên khi giá dầu thế giới giảm mạnh trong
thập niên 1980, nền kinh tế Venezuela rơi vào khủng hoảng. Thay vì tìm ra con
đường để cải tổ kinh tế và chính trị để thoát khỏi sự phụ thuộc vào dầu mỏ, mở
rộng kinh tế đa ngành, tạo công ăn việc làm, giảm được bất công xã hội và chênh
lệch giàu nghèo, thì chính phủ và người dân Venezuela họ đã chọn con đường
khác.
Họ đã bị
rơi vào quĩ đạo của “cơn điên” mà thế giới đã trải qua, cơn điên của chủ nghĩa
xã hội. (Xin đọc lại bài “Nghĩ về một cơn điên của thế giới” của ông Nguyễn Gia
Kiểng). Có hai lý do. Lý do thứ nhất người ta ủng hộ nó (cơn điên của chủ nghĩa
xã hội) bởi vì người ta chờ đợi nó và người ta không muốn nghe những lập luận
phản bác, ngay cả khi dựa trên những bằng chứng xác thực, bởi vì người ta đã
kết luận rồi và không muốn đổi ý kiến. Lý do thứ hai là sự mê hoặc của bạo lực.
Bản năng bạo lực có trong mỗi người và nằm sẵn trong bản chất của con người.
Con người đã sống và chịu đựng bạo lực trong suốt chiều dài lịch sử. Người ta
vừa ghê sợ vừa ham muốn nó. Bạo lực cũng có tính lãng mạn của nó. Trong mỗi con
người đều luôn có một tên sát nhân phải kiềm chế. Chủ nghĩa cộng sản đã thả
lỏng tên sát nhân này để thỏa mãn bản năng.
Năm 1998,
người dân Venezuela đã bầu cho một viên sĩ quan quân đội là Hugo Chavez làm
tổng thống với tỷ lệ 56%, người đã đưa học thuyết của chủ nghĩa Bolivar và chủ
nghĩa xã hội áp dụng cho Venezuela. Hugo Chavez đã nắm quyền từ cuối năm 1998
đến lúc ông qua đời năm 2013, và người kế vị ông là ông Nicolas Maduro từ năm
2013 đến nay năm 2017, cũng tiếp bước theo con đường mà tiền bối Hugo Chavez đã
đi.
Khi lãnh
đạo Venezuela chọn con đường xã hội chủ nghĩa, thì tình trạng cũng như y những
quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Chính phủ tịch thu tài sản cá nhân một cách tùy
tiện; quốc hữu hóa tài sản dẫn đến các ngành sản xuất trong nước hầu như suy
sụp (nền kinh tế chỉ nhắm tới xuất khẩu dầu thô, trong lúc lại hạn chế nhập
khẩu ngay cả các nhu yếu phẩm và thuốc men); giới quân sự quản lý bộ máy ngân
sách cồng kềnh; tham nhũng tràn lan và không thể nào kiểm soát được; truyền
thông báo chí bị giới hạn; bắt bớ đàn áp đối lập gia tăng; chính phủ mượn những
khoản tiền khổng lồ của nước ngoài để độc quyền nắm giữ quyền lực và cung cấp
lương thực thực phẩm miễn phí nhằm lừa mị người dân.
Chính sách
xã hội chủ nghĩa quả thật đã đánh lừa được người dân trong giai đoạn đầu, nhưng
chỉ 10 năm sau đó, mọi ung nhọt của chủ nghĩa xã hội đã không thể che giấu nữa.
Sau 10 năm theo định hướng xã hội chủ nghĩa, năm 2008 tỷ lệ lạm phát của
Venezuela đã tăng 30,9%, cao nhất trên toàn khu vực châu Mỹ. Điều gì đến cũng
phải đến, vào tháng 11 năm 2017, Venezuela đã chính thức thông báo vỡ nợ, chìm
sâu vào khủng hoảng. Chủ nghĩa xã hội đã hoàn toàn phá hủy hệ thống sản xuất và
phân phối của quốc gia này.
Cộng hòa
Zimbabwe là một quốc gia nằm ở phía nam lục địa Phi, dân số khoảng 12 triệu người,
là nước có tiềm năng kinh tế, giàu tài nguyên thiên nhiên với crom và vàng là
khoáng sản chính của nước này. Zimbabwe là thuộc địa Anh từ năm 1888 đến 1965. Các
nhóm sắc tộc da đen chiếm 98% dân số, người da trắng chiếm chưa tới 1% tổng dân
số (chủ yếu có nguồn gốc Anh, tuy nhiên sau cuộc bài xích người da trắng những
năm 2000, thì số người da trắng chỉ còn là một thiếu số rất nhỏ), người lai
chiếm 0.5% dân số, và nhiều nhóm sắc tộc châu Á khác chiếm 0.5% (chủ yếu là
người Ấn Độ và Trung Quốc).
Trong cuộc
bầu cử tháng 2 năm 1980, Robert Mugabe và đảng ZANU của mình giành một thắng
lợi lớn, Robert Mugabe trở thành thủ tướng của Zimbabwe.
Điều đáng
chú ý, từ khi độc lập năm 1965 đến 1987, Zimbabwe là một nước theo chế độ cộng
hòa đại nghị. Nhưng sau năm 1987, Robert Mugabe đã sửa đổi hiến pháp và tự
phong mình làm tổng thống, Zimbabwe trở thành một nước cộng hòa theo chế độ
tổng thống.
Robert Mugabe
và đảng của mình là ZANU (1965-1988) và ZANU-PF (1988 - nay 2017), ngoài cuộc
bầu cử tháng 2 năm 1980 là thắng lợi thực sự, thì các cuộc bầu cử còn lại đều
bị cáo buộc gian lận.
Sau độc
lập 1965 cho tới năm 1987, chính quyền mới chủ trương xây dựng nền kinh tế độc
lập, duy trì tốc độ phát triển, tiến hành cấp ruộng đất cho người da đen, ban
hành luật lao động, định cư, nâng lương tối thiểu, xây dựng cơ sở y tế, giáo dục;
thực hiện chính sách ôn hòa với người da trắng, sử dụng tay nghề, vốn, kỹ thuật
và cơ cấu kinh tế, tài chính của họ nhằm duy trì sản xuất, tránh xáo trộn tình
hình. Chính quyền mới từng bước cải tạo nền kinh tế theo chiều hướng xóa dần tệ
phân biệt chủng tộc, hạn chế bóc lột sức lao động. Nhà nước nắm những lĩnh vực
kinh tế quan trọng như ngân hàng, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên, xuất nhập
khẩu; lập hợp tác xã nông nghiệp, xí nghiệp công nghiệp; thực hiện tự do hóa
nền kinh tế, khuyến khích khu vực tư nhân, xoá bỏ cấp giấy phép nhập khẩu, kiểm
soát giá cả các mặt hàng tiêu dùng, nới lỏng quản lý trao đổi ngoại tệ để thu
hút đầu tư và khuyến khích liên doanh với nước ngoài. Tranh thủ vốn đầu tư, kỹ
thuật và viện trợ của các nước để duy trì hoạt động của nền kinh tế. Xúc tiến
hợp tác khu vực, xây dựng ống dẫn dầu qua cảng Becca, Maputo của Mozambique,
phục hồi đường sắt vận chuyển qua các nước, từng bước tăng quan hệ kinh tế hợp
tác với châu Phi.
Dù là đang
trong thời gian chiến tranh du kích, nhưng Zimbabwe vẫn duy trì được mức độ
tăng trưởng kinh tế dương trong suốt những năm 1980 (tăng trưởng 5.0% GDP hàng
năm), và là nước khá giả nhất Châu Phi lúc bấy giờ.
Robert Mugabe
đã đưa Zimbabwe tiến từ từ vào thiên đường xã hội chủ nghĩa, cũng mang đặc tính
như những nước độc tài, xã hội chủ nghĩa khác. Chính phủ đã phá bỏ nền kinh tế
thị trường mà chính phủ trước đây đã nỗ lực xây dựng, tăng cường kiểm soát
người dân, vi phạm nhân quyền, đàn áp đối lập, thu hồi ruộng đất, kiểm soát
giá, nông nghiệp giảm sút, tình trạng bất ổn trong ngành công nghiệp càng làm
suy yếu nền kinh tế, lương bổng và các chính sách xã hội đi xuống, trình trạng
sức khỏe sụt giảm trầm trọng, đói khổ triền miên trong dân, tham nhũng trầm
trọng, tài nguyên thiên nhiên và rừng bị tàn phá.
Chính sách
thu đất canh tác của người thiểu số da trắng năm 2000, cùng những trận hạn hán
liên tục, và thiếu nguồn cung cũng như tài chính, dẫn tới một sự sụt giảm mạnh
trong xuất khẩu nông nghiệp. Chính sách bài xích người da trắng, đã khiến hầu
hết người da trắng phải đi khỏi đất nước, khiến cho Zimbabwe mất đi một nguồn
lực sản xuất lớn của đất nước, dẫn đến thiếu hụt lương thực trầm trọng. Số
người da trắng đã giảm từ đỉnh điểm khoảng 296,000 người năm 1975 xuống còn
khoảng 120,000 năm 1999 và được ước tính còn không hơn 50,000 năm 2002, và có
thể còn ít hơn.
Sự tan rã
kinh tế cùng những biện pháp đàn áp chính trị tại Zimbabwe đã dẫn tới một làn
sóng người tị nạn đổ tới các quốc gia láng giềng. Ước tính 3.4 triệu người
Zimbabwe, khoảng một phần tư dân số, đã chạy ra nước ngoài ở thời điểm giữa năm
2007, trong đó có khoảng 3 triệu người trong số đó đã tới Nam Phi.
Vòng xoáy
suy giảm của nền kinh tế có nguyên nhân chủ yếu từ sự quản lý kém và tham nhũng
của chính quyền Robert Mugabe và sự tịch thu tài sản bất hợp pháp của hơn 4,000
chủ trại da trắng trong chiến dịch phân phối lại đất đai gây nhiều tranh cãi
năm 2000, cùng với việc Zimbabwe tham gia vào cuộc chiến tại Cộng hoà Dân chủ
Congo từ năm 1998 tới năm 2002 đã làm nền kinh tế nước này thiệt hại hàng trăm
triệu dollar.
Trong
khoảng 5 năm qua, từ năm 2012 đến 2017, việc đấu đá nội bộ và thanh trừng tại
ZANU-PF do Robert Mugabe chủ xướng, đã dẫn đến sự hỗn loạn và làm suy thoái sự
phát triển của Zimbabwe.
Cuộc đảo
chính tháng 11 năm 2017 ở Zimbabwe không mang lại một làn gió mới nào để hy
vọng thay đổi về nhân quyền và kinh tế cho Zimbabwe. Cuộc đảo chính này, chỉ là
cuộc can thiệp của quân đội, nhằm chuyển quyền lực qua tay cựu phó tổng thống
Emmerson Mnangagwa, nhằm bảo vệ phe thủ cựu và đảng cầm quyền ZANU-PF.
Ngày 24
tháng 11 năm 2017, ngày mà quân đội và người dân Zimbabwe loại bỏ được tổng
thống độc tài sau 37 năm, nhưng liệu đây có phải là ngày mở đầu cho sự cầm
quyền của một tổng thống độc tài còn tàn bạo hơn hay không? Nhiều người vui
mừng vì Zimbabwe đã đảo chính thành công và không có tổn thất nào về người.
Nhưng cũng không khỏi lo lắng nếu đối lập và người dân Zimbabwe không có cải
cách để kiểm soát quyền lực của tổng thống, tăng tính đại nghị trong bộ máy cầm
quyền.
Emmerson
Mnangagwa và cả sự nghiệp chính trị của ông này hoàn toàn gắn với nhà độc tài
93 tuổi Robert Mugabe, nhân vật này đã được cảnh báo là có thể trở thành một
nhà lãnh đạo "đàn áp hơn cả Mugabe" nếu lên nắm quyền. Mnangagwa bị
ghê sợ do vai trò "đao phủ" của ông này dưới quyền Mugabe. Ông từng
là người đứng đầu cơ quan cảnh sát mật Zimbabwe (CIO), được cho là dính líu đến
vụ thảm sát tộc người Ndebele ở Matabeleland, tây nam Zimbabwe trong hai năm
1983-1984. Hiệp hội Các nhà nghiên cứu diệt chủng quốc tế (IAGS) ước tính ít
nhất 20,000 thường dân đã bị giết bởi CIO và quân đội Zimbabwe.
Ngoại
trưởng Anh, ông Boris Johnson kêu gọi Zimababwe tổ chức bầu cử để chọn ra nhà
lãnh đạo mới. "Không ai muốn nhìn
thấy quyền lực chuyển giao từ một nhà độc tài này sang nhà độc tài khác. Chúng
tôi muốn thấy cuộc bầu cử tự do và công bằng trong năm tới, và đó là điều chúng
tôi sẽ cố gắng thúc đẩy".
Chúng ta
cùng cầu mong cho đất nước Zimbabwe, người dân, tầng lớp tinh hoa, giới an ninh
– quân đội, các đảng đối lập Zimbabwe làm tốt trọng trách đưa lại dân chủ, phồn
thịnh cho đất nước Zimbabwe.
Một quốc
gia theo chế độ tổng thống, với nền dân chủ non trẻ rất dễ dàng rơi vào tay một
tổng thống độc tài. Một số tổng thống độc tài hiện nay như tổng thống Nga, Vladimir
Putin, đã biến nước Nga thành một nước phải theo chủ nghĩa Putin, mang đậm nét
chủ nghĩa dân tộc và phi dân chủ, là một dạng chủ nghĩa tư bản nhà nước, chính
phủ chi phối mọi phương tiện truyền thông. Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ, ông Recep
Tayyip Erdoğan, người đã sớm chuyển hướng sang chủ nghĩa chuyên chế từ lâu, nay
lại càng tập trung quyền lực nhiều hơn. Tổng thống Philippines, ông Rodrigo
Duterte, một nhà dân túy cứng rắn công khai. Tổng thống Venezuela và tổng thống
Zimbabwe, họ đều là những tổng thống độc tài, đưa đất nước vào bế tắc. Và rất
nhiều những tổng thống độc tài, bất tài khác.
1) Tổng
thống nắm rất nhiều quyền hành trong tay.
2) Tổng
thống được bầu theo thể thức phổ thông đầu phiếu, nên tính chính danh rất lớn,
và dù tổng thống không thể hiện được năng lực lãnh đạo, hay thậm chí sai phạm
nghiêm trọng, cũng khó lòng phế truất khi đang trong thời gian tại nhiệm.
3) Vì được bầu theo thể thức phổ thông đầu
phiếu, nên người được bầu thường là nhờ vào những đặc điểm ngoại hình bên ngoài
và những lời hứa mị dân hoặc mục tiêu ngắn hạn. Những người theo chủ nghĩa dân
túy cánh hữu thường là người có sức thu hút rất lớn đối với đại bộ phận dân
chúng, một chủ nghĩa mà nó thỏa mãn được cơn khát nhất thời của người dân,
nhưng hậu quả của sự cai trị này thì không thể lường trước được.
4) Chế độ tổng thống làm suy yếu vai trò của
các đảng chính trị. Các đảng chính trị là nơi đào tạo ra các chính trị gia, là
nơi các ý kiến được sàng lọc, phân tích và kiểm nghiệm. Khi vai trò của các
đảng chính trị bị đẩy xuống mức thấp nhất thì sẽ dẫn đến các cuộc thảo luận
chính trị của các đảng chính trị không còn thực chất và nhận thức của dân chúng
về chính trị cũng thấp dần.
5) Xảy ra sự mâu thuẫn giữa tổng thống và quốc
hội khi đảng của tổng thống không chiếm đa số trong quốc hội, dẫn đến sự bế tắc
trong việc ra các chính sách quốc gia….
Khi các
đảng chính trị suy yếu, nhận thức chính trị người dân sẽ thấp dần, xã hội dân
sự chưa phát triển, thì việc chọn lựa nhầm lãnh đạo là vấn đề dễ dàng xảy ra,
các chính sách quốc gia sẽ được tổng thống đơn phương ban hành, mà không cần
được quốc hội thông qua, các mầm mống độc tài sẽ không bị ngăn chặn khi chúng
vừa mới ló dạng.
Sự hình
thành các nhà lãnh đạo độc tài thường được diễn ra như thế nào? Lúc đầu, họ
thường hứa hẹn với người dân rằng họ có thể sửa chữa được các vấn đề của xã
hội, họ mị dân bằng các chính sách của chủ nghĩa dân túy, họ hứa hẹn mang lại
ổn định và trật tự... Sau khi giành chiến thắng trong bầu cử, nắm trong tay
quyền quyết định và điều hành, họ sẽ có đủ thẩm quyền để đưa ra những quyết
định nhanh chóng và ngắn hạn, qua đó duy trì sự ủng hộ của cử tri và ngày càng
giành được nhiều thẩm quyền hơn. Khi họ có nhiều thẩm quyền hơn, thì song song
đó họ bóp nghẹt truyền thông, cắt bớt các quyền tự do dân sự, tiêu diệt các đối
thủ chính trị. Tới một lúc nào đó, quyền lực trong tay họ quá lớn, truyền thông
đã bị bóp nghẹt, đối lập đã bị triệt tiêu, thì họ sẽ trở thành những nhà lãnh
đạo độc tài hủy hoại đất nước.
Các tổng
thống trong các nước có chế độ tổng thống có những đặc điểm sau:
• Tổng thống được bầu cử với phiếu bầu trực tiếp theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.
• Tổng thống đảm nhiệm vai trò là nguyên thủ quốc gia và đồng thời cũng là người đứng đầu chính phủ.
• Tổng thống vừa là biểu tượng quốc gia, vừa là đại diện của đảng mình hoạt động.
• Có quyền bổ nhiệm phó tổng thống và quyết định quy mô và thành phần của nội các và bổ nhiệm các thành viên với sự phê chuẩn của quốc hội.
• Quân đội nằm dưới sự chỉ huy của Tổng tư lệnh quân đội là tổng thống.
• Có thể đề nghị quốc hội sửa đổi các điều luật nhưng quốc hội cũng có thế phủ quyết đề nghị của tổng thống nếu đa số phản đối.
• Nhiệm kỳ của một tổng thống là 4 hoặc 6 năm và tổng thống có thể được bầu lại trong một nhiệm kỳ tiếp theo.
4. Hoa Kỳ là một
ngoại lệ, vì sao?
Một điều
chúng ta nên ý thức là cho tới nay hầu như TẤT CẢ mọi chế độ tổng thống đều đã
thất bại trừ trường hợp duy nhất của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã không thất bại, bởi vì
một số đặc điểm chính sau:
1) Hoa Kỳ
đã thừa hưởng di sản của những người lập quốc tuyệt vời, với nền hiến pháp dân
chủ chặt chẽ dẫn đường;
2) Hoa Kỳ tu chính hiến pháp rất nhiều để tổng
thống không còn có quá nhiều quyền hành như các nước theo chế độ tổng thống
khác, quyền hành chủ yếu nằm trong tay quốc hội và quyền hành cũng được tản
quyền cho các chính quyền liên bang, cũng như thực hiện tam quyền phân lập thực
sự;
3) Hoa Kỳ
có cấu trúc xã hội dân sự mạnh, tinh thần thượng tôn pháp luật và tự do báo chí
rất cao;
4) Hoa Kỳ
hầu như luôn ổn định về tư tưởng chính trị;
5) Tổng
thống Hoa Kỳ cũng không do phổ thông đầu phiếu chọn ra, mà do đại cử tri đoàn
bầu chọn.
Tinh thần
Mỹ đã thành công ngay cả với chế độ tổng thống. Tuy nhiên, dần dần ngay tại Hoa
Kỳ, chế độ tổng thống ngày nay cũng đã chứng tỏ sự tàn phá của nó. Từ 25 năm
qua Hoa Kỳ đã chỉ có những tổng thống tồi dở: Bill Clinton, George W. Bush,
Barack Obama và Donald Trump. Không phải là Hoa Kỳ không có những người giỏi
nhưng sự hời hợt tự nhiên của việc bầu cử tổng thống đã cho phép những kẻ tồi
dở nhưng mầu mè đánh bại những người có bản lĩnh chính trị, cụ thể như sau:
1) Năm
1992, Bill Clinton, một thanh niên trốn lính, không kinh nghiệm và đạo đức kém
đã đánh bại tổng thống đương nhiệm George H. W. Bush, một người đầy kinh
nghiệm, một anh hùng trong thế chiến II và cũng là người góp phần quyết định
đánh sập Liên Xô và phong trào cộng sản quốc tế;
2) Năm
2000, George W. Bush, một người không có tài và cũng không biết gì về thế giới
đánh bại Al Gore, một người tài giỏi, kinh nghiệm và đầy viễn kiến;
3) Năm
2008, Barack Obama, một người gần như hoàn toàn không có kiến thức chính trị
nào đánh bại John McCain, một người dũng cảm và đầy kinh nghiệm;
4) Năm
2016 đến lượt Donald Trump đắc củ tổng thống. Trump là một người không có tài
năng nào về chính trị, không có kinh nghiệm, không có đạo đức cũng chẳng có tâm
hồn. Nhưng thắng lợi của Trump có logic của nó và không vô lý. Cử tri Mỹ phải
chọn giữa Donald Trump với Hillary Clinton, và với nhiều người Mỹ, Hillary
Clinton còn đáng ghét hơn Trump. Chế độ tổng thống đã tàn phá chính trường Mỹ ở
mức rất nghiêm trọng.
Có vẻ Hoa
Kỳ đang hạn chế dần dần quyền lực của tổng thống và chuyển dần về chế độ đại
nghị trong tương lai?
5. Chọn lựa cho
Việt Nam hôm nay và mai sau.
Cả
Venezuela và Zimbabwe, ngoài đảng cầm quyền ra, còn có trên 2 đảng đối lập hoạt
động trong nước. Do đó, họ vẫn còn có cạnh tranh trong chính trị. Người dân
Venezuela xuống đường vì họ có đối lập tổ chức, người dân Zimbabwe xuống được
vì họ có đối lập hoặc quân đội tổ chức.
Nhiều
người hỏi, khi nào thì người dân Việt Nam xuống đường? Câu hỏi này dành để hỏi
những người còn quan tâm đến đất nước: Khi nào thì họ tập hợp lại với nhau
trong một tổ chức? Họ còn rời rạc vì họ còn mong làm minh quân, vì họ là những
nhân sĩ chờ thời, hay vì họ không muốn dấn thân hơn nữa ngoài những lên tiếng
như một kiểu phản vấn lương tri của mình? Khi những người còn quan tâm đến đến
nước chưa liên kết được với nhau, thì xin đừng hỏi người dân, người dân họ hoàn
toàn không biết nên đi hướng nào trên con đường đấu tranh, họ đang mong chờ sự
kết hợp và đường lối của những người đấu tranh.
Việt Nam
đã, đang là chế độ độc tài đảng trị, do đó Việt Nam không có đối lập nào chính
thức ra mặt hoạt động trong nước khi chưa đủ lực lượng và phương tiện. Các tổ
chức đối lập hiện đang đặt cơ quan tại hải ngoại và chỉ có thể chính thức ra
mặt khi có đủ lực lượng nòng cốt và được tầng lớp trí thức chính trị ủng hộ. Những
người đấu tranh dân chủ hoàn toàn có thể chọn cho mình một tổ chức có viễn kiến
để tham gia và cùng phát triển tổ chức, hoặc có thể thành lập tổ chức mới nếu
có quyết tâm và có định hướng. Một đất nước chỉ có thể tiến lên, khi người dân
lương thiện giúp đỡ nhau, ngược lại, một đất nước mà ai cũng muốn hơn người
khác, ai cũng muốn làm minh quân, thì đất nước đó chỉ có thể đi xuống. Trên thế
giới, chưa có sự thành công nào mà không khởi đầu từ những kết hợp chặt chẽ.
Zimbabwe
đã thể hiện tinh thần hòa giải nội bộ vào khoảng thời gian độc lập 1965 và cố
gắng xây dựng một nhà nước ổn vững, nhân quyền nhưng tiếc thay điều đó đã bị
chủ nghĩa nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa xã hội phá hủy. Tại Vezuela từ đầu
năm 2017 tới nay, đã diễn ra làn sóng biểu tình liên tục và tình trạng bất ổn
nghiêm trọng cùng tình trạng vỡ nợ, nhưng tổng thống Nicolas Maduro, vẫn quyết
bám giữ quyền lực, không chịu từ chức. Hậu quả của những tổng thống độc tài để
lại cho đất nước thật kinh khủng.
Việt Nam
đang cố gắng để thoát khỏi ách độc tài toàn trị của đảng cộng sản, nhưng khi đã
thoát ra được, chúng ta nên và sẽ chọn thể chế chính trị nào để xây dựng đất
nước? Việt Nam trong tương lai, nhất định phải đoạn tuyệt chế độ tổng thống vì
Việt Nam chưa phải là nước có nền móng dân chủ, vì Việt Nam là nước có nền văn
hóa Khổng Giáo nên phần lớn người dân vẫn luôn tôn vinh những kẻ cầm quyền dù
kẻ cầm quyền đó là những bạo chúa, vì tinh thần thượng tôn pháp luật của người
Việt hiện nay chưa cao, vì Việt Nam chưa có các chính đảng đối lập mạnh…Nếu
chọn mô hình tổng thống, sẽ dễ dàng đưa đất nước vào bế tắc và độc tài.
Chuyển hóa
từ chế độ tổng thống sang chế độ đại nghị là điều rất khó. Các nước Châu Mỹ La
tinh dù được độc lập từ hai thế kỷ nay với tài nguyên bao la mà vẫn quằn quại
trong nghèo khổ. Họ muốn chuyển sang chế độ đại nghị mà không làm được. Quán
tính và sự cám dỗ của chế độ tổng thống rất lớn. Các nước Châu Phi đều theo chế
độ tổng thống với hậu quả bi đát mà thế giới đang chứng kiến nhưng cũng không
thể nào thay đổi được. Do đó ngay từ ban đầu, chúng ta sẽ chọn lựa mô hình chế
độ đại nghị cho Việt Nam dân chủ, nhằm tránh khả năng bế tắc và tụt hậu không
lối thoát cho Việt Nam sau này.
Venezuela
và Zimbabwe, tiếp tục là chứng minh về sự thất bại của hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa và chế độ tổng thống. Nếu một hãng sản xuất máy bay có tỷ lệ máy
bay rơi là 99%, liệu trong tương lai chúng ta có bước lên một trong những chiếc
do hãng này sản xuất hay không? Một người tỉnh táo sẽ không bao giờ làm điều
đó.
Việt Lữ
(27/11/2017)