Tránh hải sản tầng đáy, ngư dân sống bằng gì? (Lan Hương)
Tầng đáy và tầng mặt có sự phân định không rõ. Sinh vật tầng đáy
nhưng ngoi lên tầng mặt là thành ở tầng mặt thôi. Thường những con cá
lớn, ăn tạp và khả năng chịu áp suất lớn sống ở tầng đáy. Nhưng nói như
vậy cũng chỉ mang tính tương đối thôi chứ không phân biệt được hết.
Vừa rồi Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình khuyến cáo ngư dân 4 tỉnh miền
Trung không nên đánh bắt hải sản ở tầng đáy ở khu vực 20 hải lý trở vào
bờ, giải thích rằng vì ảnh hưởng ô nhiễm môi trường do Formosa gây ra.
Một số nhà khoa học nói rằng họ không đồng ý về tính an toàn của khoảng
cách 20 hải lý mà Phó Thủ Tướng Việt Nam đưa ra, vì những cuộc nghiên
cứu khoa học cho thấy chất độc trong nước thải của Formosa có thể ảnh
hưởng tới 70 hải lý.
Hải sản còn độc
Từ tháng 9 năm ngoái, Bộ Y Tế Việt Nam đã đưa ra khuyến cáo, nói rằng
những sinh vật tầng đáy như ghẹ, tôm, ốc mực, bạch tuộc, cua đá trong
phạm vi 20 hải lý trở về bờ vẫn chứa phenol, không đủ điều kiện an toàn
thực phẩm.
Hôm 17/5 vừa qua, Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình nhắc lại khuyến cáo
này tại cuộc họp của Ban chỉ đạo khắc phục sự cố, ổn định đời sống, sản
xuất kinh doanh cho bốn tỉnh bị ảnh hưởng, là các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.
Tiến Sỹ Nguyễn Tác An - Phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật biển Việt
Nam, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang nói rằng theo số
liệu chính thức của giới chuyên gia khoa học nghiên cứu thì những chất
độc trong nước thải của Formosa có thể kéo 70 hải lý. Theo quan điểm của
ông, con số 20 hải lý được đưa ra là dựa vào đặc tính nghề cá của Việt
Nam:
Để nói 20 hải lý đã đủ rộng để bao quát chất độc tầng đáy hay chưa
là rất khó. Nhưng nghề cá thủ công ven bờ của Việt Nam người ta không
ra quá 20 hải lý, tức là khoảng 40 cây số, người ta không ra xa được.
Công cụ khai thác cũng chỉ tới độ sâu 50-100m thôi.
Trong khi đó, giáo sư Lê Huy Bá, nguyên trưởng Viện Khoa học - Công
nghệ và Quản lý Môi trường, Đại học Công Nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
lại cho rằng con số 20 hải lý chỉ mang tính chất tương đối, các vùng
biển khác nhau có thể yêu cầu con số an toàn khác nhau. Nhưng theo ông,
khoảng cách an toàn nhất là:
Khoảng 25 hải lý là người dân nên tránh hải sản tầng đáy. 20 hải
lý cũng được nhưng không phải là con số an toàn tuyệt đối. Rộng hay hẹp
phụ thuộc vào địa hình từng nơi, rồi phụ thuộc vào song triều, hải lưu,
hệ thực vật,…
Làm sao tránh cá tầng đáy?
Năm ngoái, ông Nguyễn Ngọc Oai – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy
sản (Bộ NN&PTNT) từng nói với báo chí rằng hải sản ven bờ ở tầng nổi
là an toàn do đặc tính sinh học hay di chuyển.
Tuy nhiên nhiều ý kiến lo ngại hải sản tầng đáy có thể di chuyển lên
tầng nổi và người dân có thể nhầm lẫn dẫn đến nguy hiểm khi ăn phải.
Giáo sư Lê Huy Bá nhận định:
Tầng đáy và tầng mặt có sự phân định không rõ. Sinh vật tầng đáy
nhưng ngoi lên tầng mặt là thành ở tầng mặt thôi. Thường những con cá
lớn, ăn tạp và khả năng chịu áp suất lớn sống ở tầng đáy. Nhưng nói như
vậy cũng chỉ mang tính tương đối thôi chứ không phân biệt được hết.
Trong khi đó ông Nguyễn Tác An lại cho rằng chuyện nhầm lẫn khó xảy ra vì sinh vật tầng đáy thường chỉ cố định ở tầng đáy:
Sinh vật nổi là loài di cư tức là sống ở ngoài khơi hoặc ở vùng
khác đến theo thức ăn nổi. Còn sinh vật đáy là sinh vật ăn đáy và thường
định cư ở đó. Nếu nói sinh vật tầng đáy có thể lên tầng nổi là không
đúng với khái niệm phân biệt trong nghề cá.
Viện nghiên cứu hải sản trước đó cũng lập ra danh sách 154 loại hải
sản thường gặp sống ở 4 tỉnh Bắc Trung Bộ này. Tuy nhiên rất nhiều ý
kiến bình luận trên mạng nói rằng làm sao người dân có thể nhớ hết được
danh sách dài ngoằng như vậy. Một số khác nói rằng danh sách bao phủ gần
như toàn bộ các loài hải sản ngư dân thường bắt được. Như vậy người dân
còn gì để ăn.
Trước đó tiến sĩ Nguyễn Tác An cũng từng nói với báo Người Lao động
các chất độc từ nước thải của Formosa sẽ kết tủa, lắng xuống đáy và tồn
tại ở đấy đến khi có dịp gì đó sẽ lại bùng lên. Những chất độc này tồn
tại rất lâu, nguy hiểm, không đơn giản vài tháng vài năm là hết.
Trong cuộc trao đổi ngắn với đài RFA chiều 18/5, tiến sĩ Nguyễn Tác
An phân tích thêm rằng để nói chính xác sẽ mất bao nhiêu thời gian các
chất độc tầng đáy tiêu tan là rất khó vì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Nó phụ thuộc vào các chất độc bị thải ra, điều kiện động lực học ở
đó và khả năng tự làm sạch của vùng biển đó. Nhưng thông thường các
nước như Nhật Bản chẳng hạn họ bị ô nhiễm công nghiệp 60 năm nay họ vẫn
chưa giải quyết xong.
Ông nói rằng có thể một đời người cũng không đủ thời gian để hệ sinh
thái tầng đáy có thể khôi phục. Tuy nhiên, Việt Nam thuộc vùng biển
nhiệt đới, lại có hệ thống cường lực chạy rất mạnh tạo ra khả năng tự
làm sạch rất lớn vì nhiệt độ rất nóng, khác với các nước ở ôn đới, hàn
đới. Ông đánh giá:
Những sự cố sinh thái này giống như chén nước mình đã đổ ra đất
rồi, đến bao giờ mới lấy lại được. Nhưng vì thiên nhiên có cơ chế tái
phục hồi, nhưng đòi hỏi thời gian lâu. Vùng biển Việt Nam có nhiều yếu
tố thuận lợi cho quá trình phục hồi nhưng cũng không thể chỉ vài năm là
được. Ít nhất cũng phải chục năm, không thì 20-30 năm và thậm chí có thể
lâu hơn nữa.
Tiến sĩ Nguyễn Tác An cho rằng cần khuyến cáo người dân cẩn thận khi
sử dụng hải sản hay sinh hoạt trên biển những khi nguồn động lực ở tầng
đáy thay đổi như mưa bão chẳng hạn. Các hiện tượng này có thể làm khuấy
động các chất độc ở tầng đáy lên tầng nổi.
Thảm họa môi trường Formosa xảy ra hồi tháng 4 năm ngoái làm cá, hải
sản chết hàng loạt nổi trắng bờ biển 4 tỉnh Bắc trung bộ, khiến hàng
trăm ngàn người dân mất sinh kế.
Các nhà khoa học phân tích rằng hiện tượng cá chết chỉ là phần nổi
của tảng băng, điều nguy hiểm hơn là hệ sinh thái tầng đáy bị hỏng.
Trong khi đó, đến 90% môi trường biển là sinh vật đáy.