Đấu đá giữa kỳ & Vận mệnh quốc gia (Nguyễn Quang Dy)
Việt Nam đang đứng trước nguy cơ cả khủng hoảng kinh tế lẫn xã hội
và chính trị. Không phải chỉ có dân chúng mất niềm tin, doanh nghiệp
hoang mang, mà cả cán bộ cao cấp cũng nhấp nhổm chuồn ra nước ngoài (mỗi
khi bị truy cứu trách nhiệm). Hội nghị TW5 sẽ mở màn cho một đợt thanh
trừng mới, đẩy tranh giành quyền lực lên một tầm cao mới. Nhưng nếu
không cải cách thể chế (chính trị) thì không thể tránh được khủng hoảng
chính trị.
Hội
nghi TW5 đã bắt đầu. Sự cố Đồng Tâm chưa kịp lắng xuống thì tin kỷ luật
ông Đinh La Thăng lại rộ lên. Không khí Hà Nội lại nóng bỏng và ngột
ngạt như trước ĐH XII, với những tin tức đồn đoán dồn dập. Sau ông Thăng
sẽ đến lượt ai? Liệu ông Nguyễn Tấn Dũng có còn an toàn? Ai sẽ thay ông
Thăng tại thành phố Hồ Chí Minh? Nhưng quan trọng hơn cả là ai sẽ giành
được chiếc ghế Tổng Bí thư? Phải chăng những ân oán chưa kịp thanh toán
tại ĐH XII thì nay phải thanh lý? Có lẽ vấn đề nhân sự còn quan trọng
hơn cả vận mệnh quốc gia.
Đối với nhiệm kỳ của một chính phủ mới, việc kiểm điểm hay đánh giá
giữa kỳ (mid-term review) là một thông lệ cần thiết (đúng quy trình).
Muốn đánh giá khách quan để có một bức tranh phản ánh đúng hiện trạng,
nhằm cải cách thể chế theo định hướng “kiến tạo, phục vụ, liêm chính và hành động”,
người ta thường tham vấn ý kiến của các chuyên gia tư vấn độc lập. Dưới
đây là một số đánh giá khái quát về thực trạng Việt Nam trước TW5.
Chính phủ kiến tạo
Ngay tại đại hội doanh nghiệp nhỏ và vừa (3/12/2016) thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh “phải xóa bỏ ngay tình trạng quan hệ thân
hữu đang bóp chết việc làm ăn chân chính, xóa bỏ tư tưởng quan hệ tốt
với chính quyền sẽ có cơ hội tiếp cận tốt hơn các tài nguyên đất đai,
thể chế và các ưu đãi ngầm”. Chính phủ xác định trọng tâm trách nhiệm
của mình là “cải cách thể chế” để xây dựng chính sách và thực
hiện chiến lược đúng quy hoạch. Trong chỉ đạo và điều hành phải bảo đảm
công khai, minh bạch, bình đẳng, xóa bỏ cơ chế “xin-cho”, chống lại lợi
ích nhóm, tham nhũng và trục lợi. (Người Lao Động, 3/12/2016).
Từ khi nhậm chức, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cam kết trước toàn dân về một chính phủ “kiến tạo, phục vụ, liêm chính và hành động”.
Ngay từ đầu, Thủ tướng đã tập trung cải thiện môi trường kinh doanh,
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Ông đã tạo được dấu ấn nhất
định với cộng đồng doanh nghiệp bằng cách đối thoại trực tiếp, và đưa ra
Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 (năm 2016) và Nghị quyết 19 (năm 2017)
để thúc đẩy “cải cách môi trường kinh doanh”. Đó là một định hướng đúng, nhưng các nghị quyết ở cấp chính phủ chưa đủ. Nhưng nếu
thiếu hoặc chậm tiến hành cuộc cải cách thể chế mạnh mẽ vào lúc này thì
sẽ không thể có được một chính phủ kiến tạo để dẫn dắt sự phát triển.
Ngay với ba nghị quyết nói trên, muốn có kết quả thực sự, Thủ tướng
phải có sự đồng hành của lãnh đạo các cấp, đặc biệt là các bộ trưởng và
chủ tịch các tỉnh/thành phố. Nhưng trên thực tế, chưa thấy có sự đồng
hành đó. Lãnh đạo các cấp vẫn còn “đủng đỉnh, ỳ ạch, đẩy qua đẩy lại
công việc cho nhau và chậm giải quyết theo chức trách của mình”. Một số
bộ, ngành vẫn bám giữ những chính sách lỗi thời, gây khó khăn cho doanh
nghiệp và một số ngành nghề. Giữa lời nói và việc làm vẫn còn một khoảng
cách xa vời, chưa khắc phục được. (“Thể chế cho một chính phủ kiến tạo”, Doanh nhân Saigon cuối tuần, 24/01/2017).
Theo bà Phạm Chi Lan, trong số các di sản của chính phủ trước, vấn
đề nan giải số một là nợ công, thứ hai là nợ xấu ngân hàng, và thứ ba là
ba đột phá chiến lược thực hiện chậm. Nhưng đến nay các vấn đề này vẫn
còn rất nan giải. “Tiền đề quan trọng nhất là đổi mới tư duy thì vẫn chưa làm được trong đông đảo đội ngũ nhà nước”. (“Bà Phạm Chi Lan trả lời phỏng vấn về thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc”, Huỳnh Phan, VietnamNet, 10/9/2016).
Tiến sỹ Lê Hồng Hiệp nhận xét rằng thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tập trung cải cách môi trường kinh doanh để
khắc phục hậu quả do chính phủ trước để lại: hệ thống ngân hàng yếu
kém, thâm hụt ngân sách lớn, các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ và tham
nhũng. Chủ trương đó đã làm cộng đồng doanh nghiệp tin tưởng hơn vào
chương trình cải cách của chính phủ mới và một số thay đổi ban đầu đã
được quốc tế thừa nhận. Tuy nhiên chương trình cải cách gặp phải nhiều
thách thức, nhất là xu hướng bảo hộ ngày càng tăng trên thế giới, và
hiệp định thương mại TPP bị Mỹ bỏ rơi. Đó là những rào cản làm ảnh hưởng
xấu đến phát triển kinh tế và làm chậm đà cải cách của Việt Nam trong
mấy năm tới. (“Reviewing Vietnam’s Economic Reforms since the CPV’s 12th Congress”, Lê Hồng Hiệp, January 5, 2017).
Theo giáo sư Carl Thayer, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc “có tinh thần
đồng đội”, và những kinh nghiệm chuyên sâu trong việc điều hành chính
quyền địa phương ở Quảng Nam trước đây cũng như khi làm Bộ trưởng - Chủ
nhiệm văn phòng Chính phủ, và Phó thủ tướng sau này. Tuy vậy, Carl
Thayer chỉ ra 4 thách thức mà ông Nguyễn Xuân Phúc đang đối mặt: (1)
giảm nợ công, (2) cải cách hệ thống ngân hàng, (3) cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước, (4) chống tham nhũng. Carl Thayer nhận xét, “Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc là một nhà điều hành và thực thi chính sách có
năng lực. Chúng ta có thể kỳ vọng vào những thành quả trong nhiệm kỳ của
ông ấy”. (“Một năm của Chính phủ kiến tạo và hành động”, Zing, 10/4/2017).
Theo giáo sư Alexander Vuving, chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cần cải cách thể chế để tạo môi trường kinh doanh thông thoáng.
Tuy còn hơi sớm để kết luận có đột phá được không, nhưng có nhiều lý do
để hy vọng đổi mới sẽ tiếp tục diễn ra. Ngoài đổi mới nhân sự lãnh đạo
cấp cao sau Đại hội Đảng lần thứ XII, có một số xu thế lớn đang thúc đẩy
chính trị và kinh tế Việt Nam theo hướng đổi mới hơn nữa. Mục tiêu này
cần trải qua nhiều bước, mà bước đầu tiên có thể tiến hành ngay là rà
soát lại các văn bản dưới luật, như các quy định, thủ tục, nghị định,
thông tư, chỉ thị. Cần mạnh tay loại bỏ các rào cản để giảm mạnh chi phí
kinh doanh, đồng thời sửa lại các quy định theo hướng bảo vệ lợi ích chung, và giảm thiểu lợi ích nhóm.
Song song với quá trình này, cần tinh giản và sắp xếp lại bộ máy
nhân sự nhà nước, bao gồm các cơ quan công quyền và doanh nghiệp nhà
nước để tăng hiệu quả, hiệu lực và năng suất của khu vực công. Hiện
tượng hiệu quả thấp và năng suất thấp không chỉ phổ biến ở khu vực nhà
nước mà cả ở khu vực tư nhân. Việc tăng hiệu quả đầu tư và tăng năng
suất lao động là những thách thức lớn mà chính phủ mới cần phải tìm mọi
cách vượt qua.
Tiến sỹ Huỳnh Thế Du (Đại học Fulbright, Việt Nam) nhận xét “Ấn
tượng lớn nhất của tôi là những hành động thực tiễn, đúng với khẩu hiệu Chính phủ hành động mà thủ tướng đã đề ra”. Thủ tướng đã có nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh,
cố gắng cải cách thể chế để tạo ra sự minh bạch trong chỉ đạo, điều
hành của Chính phủ, “nhưng chưa thấy một chiến lược rõ ràng để giải
quyết căn bản vấn đề bộ máy hành chính cồng kềnh, thể chế thiếu minh
bạch, làm rõ trách nhiệm giải trình của cán bộ lãnh đạo”. Trong năm đầu
tiên giữ cương vị đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đi
thăm nhiều nước (Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Mông Cổ, Lào, Campuchia và
Thụy Sĩ), nhằm thúc đẩy quan hệ đối ngoại.
Đại sứ Anh Giles Lever nói, “Tôi ấn tượng nhất với thành tựu của
Chính phủ trong cải thiện môi trường kinh doanh. Trong xếp hạng của Ngân
hàng Thế giới năm nay, Việt Nam đã tăng tới 9 bậc, trở thành một trong
60 nền kinh tế cạnh tranh nhất thế giới”.
Tuy các chuyên gia nhận xét khá tích cực về chủ trương cải cách của
chính phủ mới, nhưng họ cũng vạch ra nhiều thách thức và rủi ro có thể
làm thui chột kết quả. Liệu đấu đá tranh giành quyền lực giữa kỳ sẽ thúc
đẩy hay cản trở cải cách thể chế? 12 dự án lớn thua lỗ hàng chục ngàn
tỷ đồng, đang được bàn hướng xử lý, nhưng dường như vẫn chưa có ai chịu
trách nhiệm. Sau PVN sẽ là vụ nào tiếp? Vấn đề cải cách thể chế và “nhất
thể hóa” bộ máy và chức danh lãnh đạo (mở rộng đề án 25) liệu có được
xác quyết lần này (TW5) hay lần sau (TW6)? Đây là những hội nghị trù bị
cho Đại hội giữa nhiệm kỳ vào năm 2018, nên qua vụ PVN và 12 vụ án lớn
phải xét xử trong năm nay, chắc có nhiều quan chức phải vào tù.
Tại Đại hội XII, để loại ông Nguyễn Tấn Dũng, ông Nguyễn Phú Trọng
và Bộ Chính trị đã phải nhượng bộ ông Dũng bằng cách chấp nhận cơ cấu
ông Nguyễn Văn Bình, ông Đinh La Thăng và ông Hoàng Trung Hải vào Bộ
Chính trị. Nay nếu ông Đinh La Thăng bị kỷ luật phải ra khỏi Bộ Chính
trị, thì liệu ông Bình và ông Hải có thoát không? Bên cạnh mục tiêu
chống tham nhũng, ông Nguyễn Phú Trọng (và ông Trương Tấn Sang) chắc còn
khát vọng cá nhân muốn đòi món nợ từ TW6 năm 2012 khi ông Nguyễn Tấn
Dũng thoát tội.
Bàn cờ đối ngoại
Chủ nghĩa biệt lập và xu hướng bảo hộ trong nước (đang diễn ra ở
nhiều nơi trên thế giới), thay vì toàn cầu hóa và thương mại tự do, sẽ
cản trở Việt Nam tiếp tục đổi mới và phát triển. Không có hiệp định TPP,
Việt Nam sẽ bị hẫng hụt vì mất một cơ hội lớn để mở rộng thị trường
ngoài nước, đồng thời mất một sức ép mạnh từ bên ngoài để thực hiện cải
cách thể chế trong nước. Việt Nam có nguy cơ phụ thuộc nhiều hơn vào
Trung Quốc. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tại Manila (26-29/4/2017),
Tuyên bố Chung của ASEAN không nhắc gì đến việc Trung Quốc quân sự hóa
Biển Đông, vì ASEAN bị Trung Quốc phân hóa.
Tuy hy vọng đến một lúc nào đó ông Donald Trump sẽ đổi ý (như các
vấn đề khác) và quay lại với TPP, nhưng đừng nên trông đợi vào khả năng
này. Việt Nam phải mau chóng đàm phán để thực hiện một “TPP minus” (trừ
Mỹ), nhằm tận dụng các cơ hội của hiệp định này trong khuôn khổ 11 nước,
đồng thời có những nỗ lực rất lớn để thúc đẩy xuất nhập khẩu và đầu tư
với thị trường Mỹ. Việt Nam cũng phải khai thác tối đa các cơ hội thị
trường với những đối tác quan trọng khác như Liên Minh Châu Âu, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Australia, AEC. Tăng cường nội lực vừa là tiền đề tối cần
thiết cho phát triển của Việt Nam, vừa là điều kiện không thể thiếu để
Việt Nam có thể hội nhập, hợp tác kinh tế tốt với các đối tác bên ngoài.
Quan hệ Mỹ-Trung dưới thời Tổng thống Donald Trump tiềm ẩn nhiều rủi
ro. Cả hai kịch bản sau đều nguy hiểm cho Việt Nam: (1) Căng thẳng gia
tăng dẫn đến xung đột Mỹ-Trung (về thương mại hay Biển Đông) và (2) hòa
hoãn dẫn đến bắt tay hợp tác Mỹ-Trung (đi đêm) hy sinh lợi ích của đồng
minh và bạn bè (như năm 1972-1975). Việc tái cân bằng quan hệ với Mỹ và
Trung Quốc trong tam giác Mỹ-Trung-Việt sẽ khó hơn. Vì vậy ngoài Mỹ,
Việt Nam phải mau chóng tăng cường đối tác chiến lược với các cường quốc
Tây Âu (như Anh, Pháp, Đức), và với các cường quốc Châu Á (như Nhật, Ấn
Độ, Úc) trong khuôn khổ đối tác chiến lược mới ở Châu Á-TBD để đối phó
với Trung Quốc bành trướng ở Biển Đông.
Việt Nam có chủ trương “làm bạn với tất cả”. Nhưng theo tiến sỹ Vũ
Quang Việt (chuyên gia LHQ) “Từ xưa tới giờ, Việt Nam chưa bao giờ là
đồng minh của Mỹ. Có thể nói thật ra Việt Nam tưởng Trung Quốc là đồng
minh của mình nhưng không phải như vậy. Cho nên, Việt Nam không có đồng
minh, mà cơ bản là không có bạn. Ngay cả Nga cũng không phải là bạn của
Việt Nam, mà Nga cũng không coi Việt Nam là bạn”. Ông Việt cho rằng Việt
Nam phải nhận thấy thực tế đó để không ảo tưởng, và có đường lối độc
lập tự chủ.
Ngay sau khi Donald Trump đắc cử, Thủ tướng Nguyễn Xuân phúc đã có
cuộc điện đàm ngắn với ông Trump (14/12/2016), và khẳng định “Việt Nam coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác với Mỹ”.
Tổng thống đắc cử Donald Trump đánh giá cao những thành tựu Việt Nam
đạt được và những tiến triển tích cực trong quan hệ hai nước và “khẳng định mong muốn hợp tác với Việt Nam để cùng thúc đẩy quan hệ”. (VietnamNet, 15/12/2016).
Trong lần gặp Đại sứ Ted Osius (nhân dịp ông được tái cử làm đại sứ
tại Việt Nam), Chủ tịch nước Trần Đại Quang cho biết ngày 23/2/2017,
Tổng thống Donald Trump đã gửi thư cho Chủ tịch và “khẳng định mong muốn thúc đẩy hợp tác”.
Đó là những tín hiệu tốt từ phía Mỹ, nhưng nên nhớ Donald Trump vẫn là
một ẩn số khó lường. Việc Bộ Quốc phòng Mỹ không cho hải quân tiếp tục
tuần tra (FONOPS) tại Biển Đông làm người ta lo ngại Trump có thể đổi
chác vấn đề Biển Đông lấy vấn đề hạt nhân Triều Tiên. (“Trumps Turn Toward China Curtails Navy Patrols in Disputed Zones”, Helene Cooper, NYT, May 2, 2017).
Các chuyên gia CSIS (như Phương Nguyên) cho rằng “phe người lớn”
(the Axis of Adults) trong chính quyền Mỹ (như H.R. McMaster, James
Mattis, Rex Tillerson) sẽ không dễ dàng để Tổng thống Trump có thể làm
ảnh hưởng đến vị trí chiến lược của Mỹ ở châu Á-TBD. Năm 2014, khi TNS
John McCain thăm Hà Nội (khi Trung Quốc hạ đặt dàn khoan HD981) ông
McCain đã từng khuyên Việt Nam “Chúng ta phải nhanh lên”. Nhưng đáng tiếc lúc đó Việt Nam vẫn đang đánh đu với Mỹ và Trung Quốc, nên bỏ qua cơ hội.
Tại sao Tổng thống Donald Trump gửi thư cho Chủ tịch nước Trần Đại
Quang (23/2/2017), chứ không phải là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hay
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc? Trong “Tứ trụ” hiện nay ông Trần Đại Quang
vẫn là một ẩn số. Nghe nói ông Trần Đại Quang lên làm chủ tịch nước vì
đã có công ngăn chặn được tham vọng của ông Phùng Quang Thanh. Khi còn
làm Bộ trưởng Bộ Công An, ông Trần Đại Quang đã đi thăm Mỹ gần một tháng
(3/2015) nhưng vẫn chưa đi thăm Trung Quốc lần nào. Người ta cho rằng
ông Trần Đại Quang có thể kế thừa đường lối đổi mới của ông Nguyễn Tấn
Dũng. Quan điểm đổi mới của ông Lê Kiên Thành gần đây dường như phản ánh
phần nào quan điểm của Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Bộ trưởng Tô
Lâm. (“Nghĩ về cuộc đổi mới lần 2”, Lê Kiên Thành, CAND, 19/2/2017).
Sau khi thăm Trung Quốc, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã sang thăm
Mỹ, hội đàm với Ngoại trưởng Rex Tillerson tại Washington (20/4/2017).
Ông Phạm Bình Minh đã chính thức trao thư của Chủ tịch nước Trần Đại
Quang mời Tổng thống Donald Trump tham dự Hội nghị cấp cao APEC 2017 và
thăm chính thức Việt Nam. Ông Tillerson đã khẳng định Tổng thống Donald
Trump sẽ tham dự Hội nghị cấp cao APEC 2017 tại Đà Nẵng. Tại cuộc hội
đàm giữa Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh với Cố vấn Hội đồng An ninh quốc
gia H.R. McMaster (21/4/2017) ông McMaster đã trao thư của Tổng thống
Donald Trump chính thức mời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm Hoa Kỳ.
(VietnamNet, 21/4/2017).
Thực trạng đất nước
Thứ nhất là suy thoái về kinh tế và khủng hoảng tài chính, do nợ
công khổng lồ và nợ xấu ngân hàng ngày càng gia tăng. Tình trạng “thu
không đủ chi” dẫn đến bội chi ngân sách làm thâm hụt ngân sách trầm
trọng, buộc chính phủ phải bán tháo vốn ở một số doanh nghiệp lớn. Theo
đồng hồ nợ công quốc tế (the Economist), nợ công của Việt Nam (nợ chính
phủ) đã tới ngưỡng báo động (65% GDP). Nhưng theo tiến sĩ Vũ Quang Việt
(chuyên gia thống kê của LHQ), tổng số nợ công (năm 2016) là 431 tỉ USD
(bằng 210% GDP). Đây là tổng số nợ của chính phủ và nợ của các doanh
nghiệp nhà nước, sau khi trừ đi phần chính phủ bảo lãnh trùng lặp. Theo
ông Việt, riêng nợ của 3200 DNNN là 324 tỉ USD (2016), bằng 158% GDP. (“Nợ, trả nợ và khủng hoảng”, Vũ Quang Việt, TBKTSG, 9/2/2017).
Thứ hai là suy thoái của hệ thống chính quyền và khủng hoảng lòng
tin trong nhân dân (kể cả “một bộ phận không nhỏ” cán bộ đảng viên).
Chính quyền “của dân, do dân, vì dân” đã trở thành khẩu hiệu suông, hay nói khác đi là “của nhóm lợi ích, do nhóm lợi ích, vì nhóm lợi ích”.
Trong thực tế, các nhóm lợi ích đã lợi dụng các lỗ hổng về thể chế (đặc
biệt chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và các nguồn tài nguyên khoáng
sản) như luật sơ hữu toàn dân về đất đai) để thao túng chính sách nhằm
trục lợi. Có lẽ vấn đề sở hữu ruộng đất là quả bom nổ chậm lớn nhất hiện
nay. Sự cố Đồng Tâm vừa qua là một ví dụ điển hình.
Thứ ba là suy thoái về hệ tư tưởng và khủng hoảng thể chế. Mô hình
kinh tế thị trường “định hướng XHCN” và “sở hữu toàn dân” đã bộc lộ quá
nhiều bất cập và rủi ro. Doanh nghiệp nhà nước (là “quả đấm thép” của
chính phủ) đã bộc lộ quá nhiều yếu kém về quản trị, nên đánh mất vai trò
chủ đạo, trở thành gánh nặng như tội đồ của nền kinh tế. Cổ phần hóa và
tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước vẫn chậm và ỳ ạch, vì bị các nhóm
lợi ích thao túng. Có người lo nếu bỏ chính sách “hạn điền”, liệu các
nhóm lợi ích có thao túng chiếm đoạt đất không?
Thứ tư là suy thoái về văn hóa, giáo dục và khủng hoảng nhân cách.
Theo Dân Trí (31/5/2016) hiện nay có 225.000 cử nhân/thạc sĩ thất
nghiệp. Cả nước có 412 trường đại học/cao đẳng, với 2,2 triệu sinh viên
trong 95 triệu dân (một tỷ lệ còn cao hơn các nước phát triển). Theo Bộ
Lao đông, Thương binh, Xã hội, đến quý III/2016, cả nước có hơn 1,1
triệu người trong độ tuổi lao động bị thất nghiệp, trong đó số có bằng
cử nhân trở lên chiếm 1/3. Đó là cảnh báo về khủng hoảng giáo dục, làm
chất lượng nguồn nhân lực và năng suất thấp. Trong khi đó giới trí thức
vẫn tranh cãi gay gắt về chất lượng và tiêu chí phong hàm giáo sư. Hàng
năm cả nước có 8000 lễ hội, tình trạng lãng phí, bạo lực và thiếu văn
hóa tại các lễ hội đáng báo động.
Thứ năm là suy thoái về môi trường (đặc biệt là môi trường biển,
nguồn nước ngọt, rác thải và không khí). Nhiều dự án lớn đã gây ô nhiễm
và hủy hoại môi trường nghiêm trọng (như nhiệt điện/thủy điện). Điển
hình nhất là siêu dự án thép Formosa đã gây ra thảm họa môi trường miền
Trung (như một quả bom nổ chậm). Nguyên nhân chính là do tư duy chụp
giật (vì dốt và tham lam) muốn đầu tư vào dự án lớn bằng mọi giá, bất
chấp rủi ro về môi trường.
Bài học Vinashin
Một ví dụ điển hình dẫn đến khủng hoảng tài chính và nợ công khổng
lồ, là do những bê bối của “con tàu đắm Vinashin” và các tập đoàn kinh
tế khác. Đó là một vòng tròn luẩn quẩn không có lối thoát, do tư duy
quản trị sai lầm và yếu kém, bị các nhóm lợi ích thao túng lỗ hổng thể
chế để tham nhũng trục lợi, dẫn đến vấn nạn kinh tế hiện nay. Vào thời
thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Vinashin đã nợ tới 86 ngàn tỷ VNĐ (bằng 4 tỷ
USD, chiếm 2,5% GDP).
Năm 2005 chính phủ phát hành 750 triệu USD trái phiếu, kỳ hạn 10
năm, lãi xuất 7,125%/năm tại thị trường CK New York, hạn trả gốc và lãi
là 2016. Chính phủ đã cho Vinashin vay lại toàn bộ 750 triệu USD để phát
triển ngành đóng tàu. Nay khoản vay này đã tiêu tán hết, nhưng Vinashin
không có khả năng trả nợ, và hồ sơ vụ này đã “khép lại”. Chuyên gia
kinh tế Bùi Kiến Thành nói rằng giao toàn bộ 750 triệu USD cho Vinashin
là “lỗi cực kỳ lớn”.
Năm 2010, chính phủ phát hành 1 tỷ USD trái phiếu, kỳ hạn 10 năm,
lãi suất 6,75%/năm tại sở giao dịch CK Singapore. Chính phủ đã cho các
tập đoàn dầu khí, điện lực, Vinalines vay lại. Số tiền này cũng bị “nuốt
chửng” như Vinashin. Năm 2014, chính phủ định phát hành 1 tỷ USD trái
phiếu, nhưng lần này không thành. Cuối năm 2015, chính phủ lại một lần
nữa định phát hành 3 tỷ USD trái phiếu, nhưng đến giữa 2016 thì kế hoạch
này phá sản.
Đến năm 2017, món nợ Vinashin vẫn còn gần như nguyên vẹn, và trách
nhiệm trả nợ chuyển sang chính phủ ông Nguyễn Xuân Phúc. Vào quý 1/2017
chính phủ lại “kêu trời” vì nếu trả nợ cho Vinashin trong 10 năm tới
bằng tiền dự phòng ngân sách (như tiền lệ), thì phải có 63,2 ngàn tỷ
đồng. Nay lấy đâu ra số tiền khổng lồ nói trên? Vinashin (nay là SBIC)
đang ăn vạ chờ Bộ Tài chính xử lý, trong khi Bộ Tài chính phải đối phó
với bội chi ngân sách khổng lồ, không biết lấy đâu ra tiền để nuôi hai
bộ máy khổng lồ của đảng và chính phủ…
Bài học PVN
Dầu khí là ngành mũi nhọn, đóng góp nhiều nhất cho GDP (trước đây là
24%). Vì vậy PVN luôn đươc ưu tiên cao nhất và có nhiều đặc quyền nhất
(nên rất khó kiểm soát/giám sát). Tuy đơn giản chỉ cần hút dầu thô lên
bán, nhưng tại sao PVN và các công ty con vẫn thua lỗ? Phải chăng nhiệm
vụ của PVN không phải chỉ đóng góp cho GDP, mà còn phải “nuôi” lãnh đạo
(và nhóm lợi ích). Vì vậy, nhóm nào lên cầm quyền cũng phải nắm PVN.
Ngày 27/4/2017, UBKTTW đề nghị xem xét kỷ luật uỷ viên BCT Đinh La
Thăng. Luật sư Trần Quốc Thuận (nguyên Phó Chủ nhiệm VP Quốc hội) cho
rằng đây là lần đầu tiên trong lịch sử UBKTTW đề nghị xem xét kỷ luật
một Ủy viên BCT (đương chức). Nhưng điều còn bất bình thường hơn là tại
sao một cán bộ mắc nhiều sai phạm như vậy, nhưng lại được bổ nhiệm giữ
chức vụ cao hơn. Cần phải làm rõ trách nhiệm của người bổ nhiệm.
Một điều đáng lưu ý nữa là trước đây, ông Đinh La Thăng đã từng được
ca ngợi là “tư lệnh” năng động, táo bạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm
trong công tác. Ông Vũ Mão (và nhiều người khác) đã từng khen Bộ trưởng
Giao thông Đinh La Thăng hết lời, “Tôi hoan nghênh và ủng hộ những việc làm thể hiện tư duy, phong cách mạnh mẽ của của Bộ trưởng Đinh La Thăng”. (VietnamNet, 11/2011). Vậy những vị đó nay nói gì?
Báo cáo tài chính của PVN (năm 2010) đánh giá cao “thành tích” của
ông Đinh La Thăng. Thông báo của BCHTW số 148-TB/TW, về tình hình hoạt
động của PVN trong 7 năm (2007-2014) cũng đánh giá cao “Ngành Dầu khí
đã phát triển mạnh mẽ, khá toàn diện cả về chiều rộng và chiều sâu, trở
thành ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng…”.
Nhưng nay UBKTTW kết luận là thời kì 2009-2011 ông Đinh La Thăng đã mắc phải các khuyết điểm như: “Đầu
tư phân tán, dàn trải; thiếu kiểm tra, giám sát quá trình triển khai
thực hiện các dự án ở thời kỳ làm lãnh đạo Tập đoàn, dẫn đến hiệu quả
đầu tư thấp… Chịu trách nhiệm khi ký ban hành Nghị quyết 233/NQ-ĐU, ngày
17/3/2009 của Đảng uỷ Tập đoàn PVN có nội dung không phù hợp với quy
định pháp luật…” Nếu trước đây BCHTW đã đánh giá sai thì nay những người có liên quan trong vụ việc này có chịu trách nhiệm không?
Trong một mô hình kinh tế (và thể chế) bất bình thường như hiện nay,
thì việc phân định đâu là lỗi của cá nhân (ông Đinh La Thăng) và đâu là
lỗi của hệ thống, là một việc khó nhưng cần làm rõ. Nếu “đánh chuột sợ vỡ bình”
thì làm sao chống được tham nhũng? Nếu đã truy cứu trách nhiệm của ông
Đinh La Thăng tại PVN, thì cũng phải truy cứu trách nhiệm những ai đã
quyết định cho PVN đầu tư vào dự án Dung Quất và đầu tư sang Venezuela.
Chỉ vì những lý do chính trị hồ đồ mà họ đã gây tổn thất nặng nề cho
ngân sách (1,8 tỉ USD) trong tình hình tài chính khó khăn hiện nay. Vậy
ai phải chịu trách nhiệm về những tổn thất này?
Cùng với ông Vũ Huy Hoàng và Trịnh Xuân Thanh, ông Đinh La Thăng khó
thoát được tội, vì đã tìm cách tẩu tán 7 tỷ USD tiền lãi do chênh lệch
giá bán dầu khí từ những năm 2009-2011. Chính ông Nguyễn Tấn Dũng và ông
Vũ Huy Hoàng đã phát hiện ra khoản tiền lãi “trời cho” như vô chủ này
(do giá dầu tăng vọt từ 50 USD lên 140 USD/thùng). Tuy ông Trịnh Xuân
Thanh cũng biết, nhưng chỉ có ông Đinh La Thăng và trợ lý là Vũ Đức
Thuận mới biết cụ thể. Ông Thăng đã trình ông Nguyễn Tấn Dũng duyệt hàng
loạt dự án ma để tẩu tán khoản tiền khổng lồ đó, mà tổng công ty PVC
của ông Trịnh Xuân Thanh là đầu mối.
Thay lời kết
Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước 3 nguy cơ có thể cản đường đổi
mới: Thứ nhất, đồng tiền Việt Nam có thể bị mất giá từ 4% đến 5% trong
năm 2017. Thứ hai, tăng trưởng thương mại và đầu tư toàn cầu tiếp tục
sụt giảm, ảnh hưởng đến thương mại và thu hút FDI của Việt Nam. Thứ ba,
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế với các FTA mới đang gặp nhiều khó
khăn, có thể làm suy giảm động lực cải cách thể chế của Việt Nam.
Tăng trưởng thực sự của Viêt Nam hiện nay chỉ bằng 5% (theo chuyên
gia kinh tế Lê Đăng Doanh). Thảm hoạ môi trường biển do nhà máy Formosa
Vũng Áng gây ra từ tháng 4/2016 đến nay làm cho hàng trăm ngàn ngư dân
phá sản. Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước, bị hạn hán và
ngập mặn nặng nề, làm sản xuất lúa gạo bị tổn hại nghiêm trọng. Về chăn
nuôi, giá heo giảm xuống mức kỷ lục hiện nay, đang làm nông dân điêu
đứng.
Việt Nam đang đứng trước nguy cơ cả khủng hoảng kinh tế lẫn xã hội
và chính trị. Không phải chỉ có dân chúng mất niềm tin, doanh nghiệp
hoang mang, mà cả cán bộ cao cấp cũng nhấp nhổm chuồn ra nước ngoài (mỗi
khi bị truy cứu trách nhiệm). Hội nghị TW5 sẽ mở màn cho một đợt thanh
trừng mới, đẩy tranh giành quyền lực lên một tầm cao mới. Nhưng nếu
không cải cách thể chế (chính trị) thì không thể tránh được khủng hoảng
chính trị.
Muốn chống tham nhũng, trước hết phải kiểm soát quyền lực (bằng tam
quyền phân lập). Thứ hai là phải tư hữu hoá đất đai và tài sản công.
“Đánh chuột sợ vỡ bình” là một nghịch lý chết người do thể chế hiện nay
đang làm hệ thống phân liệt. Bắt xong sâu này sẽ có sâu khác, nếu cái
lồng ấp sâu vẫn còn nguyên. Diệt xong hổ này sẽ có hổ khác nếu nguyên
nhân sinh ra và nuôi dưỡng hổ báo vẫn còn. Đã đến lúc phải dũng cảm thay
đổi thể chế (thậm chí phải thay bình mới) thì may ra mới giải được
nghiệp chướng hiện nay để thoát hiểm. Xét cho cùng, nguy cơ của dân tộc
Việt Nam không phải chỉ là “thù trong” mà còn là “giặc ngoài”. Vì vậy,
nếu không sớm dẹp được “thù trong”, thì làm sao có thể chống được “giặc
ngoài”?
NQD. 4/5/2017
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 4-5-17