Hệ thống chính trị của Việt Nam trong tương lai sẽ như thế nào? (Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên) (Phần 2)
Quyết tâm của chúng ta là
thực hiện dân chủ một cách hiệu quả nhất và ngăn chặn sự trở lại của bất cứ một
hình thức độc tài nào. Chúng ta lựa chọn thể chế chính trị trên căn bản của quyết
tâm đó. Việc đầu tiên phải làm là chọn lựa
giữa một trong ba công thức: chế độ tổng thống, chế độ bán tổng thống và chế độ
đại nghị.
2. Chế độ chính trị
2.1. Chế độ đại nghị: thể
chế dân chủ và ổn vững nhất
Quyết tâm của chúng ta là
thực hiện dân chủ một cách hiệu quả nhất và ngăn chặn sự trở lại của bất cứ một
hình thức độc tài nào. Chúng ta lựa chọn thể chế chính trị trên căn bản của quyết
tâm đó. Việc đầu tiên phải làm là chọn lựa
giữa một trong ba công thức: chế độ tổng thống, chế độ bán tổng thống và chế độ
đại nghị.
Trước hết, chúng ta dứt
khoát loại bỏ chế độ tổng thống, nghĩa là chế độ trong đó một người được dân
chúng trực tiếp bầu cử theo phổ thông đầu phiếu và nắm trọn quyền hành pháp. Chế
độ này có nhiều tật nguyền không thể chấp nhận được. Ta có thể kể hai tật nguyền
thông thường nhất.
Tật nguyền đầu tiên ở
ngay trong thể thức bầu cho một người thay vì cho một chính đảng. Lối bầu này
khiến các chính đảng không lớn mạnh được vì điều kiện chính để nắm chính quyền
là một nhân vật có sức thu hút cử tri, như thế điều kiện cốt lõi là có một ủy
ban vận động tranh cử tốt chứ không phải một bộ máy đảng. Ông hay bà ta có thể
được bầu vì những lý do hời hợt như trẻ đẹp, đi đứng duyên dáng, nói năng hùng
hồn, v.v. hơn là vì uy tín của đảng mình và khả năng chính trị của mình. Ứng cử
viên này một khi đã đắc cử sẽ chế ngự đảng chứ không lệ thuộc đảng. Kinh nghiệm
cho thấy là trong mọi chế độ tổng thống, kể cả Hoa Kỳ, không có những chính đảng
mạnh như trong các chế độ đại nghị và đây là một thiệt hại lớn vì các chính đảng
vừa là lò đào tạo ra nhân tài chính trị vừa là môi trường sản xuất và sàng lọc
các ý kiến trên những vấn đề lớn đặt ra cho đất nước.
Tật nguyền thứ hai là nó
dành quá nhiều quyền cho một người trong một thời gian được quy định trước.
Trong hoàn cảnh của một nước chưa có truyền thống dân chủ, nó rất dễ dẫn tới lạm
quyền và độc tài với hậu quả là đàn áp, bạo loạn, thậm chí nội chiến. Hơn nữa nếu
tổng thống vì bất cứ lý do nào bị mất uy tín giữa nhiệm kỳ thì sinh hoạt quốc
gia sẽ bế tắc nguy hiểm trong suốt thời gian còn lại vì tổng thống không thể bị
thay thế.
Trên mặt thuần túy lý
thuyết chế độ tổng thống có ưu điểm là đảm bảo một chính quyền mạnh có khả năng
quyết định mau chóng những chọn lựa chiến lược cần thiết, nhưng thực tế hiện
nay là nguy cơ chiến tranh không còn nữa, ngay cả chiến tranh lạnh cũng đã chấm
dứt, nhu cầu có một chính quyền mạnh để lấy những quyết định quan trọng một
cách nhanh chóng không còn đặt ra nữa. Vả lại điều gì một tổng thống có thể
làm, một thủ tướng được đa số trong quốc hội yểm trợ cũng có thể làm. Sự thật lịch
sử là cho tới nay, trừ trường hợp của Hoa Kỳ, tất cả mọi chế độ tổng thống trên
thế giới đều đã thất bại, hoặc dẫn tới một chế độ độc tài cá nhân, như trường hợp
của hầu hết các quốc gia theo chế độ này, hoặc dẫn tới một xung đột bế tắc giữa
hành pháp và lập pháp.
Chính sự thất bại của các
chế độ tổng thống đã đưa đến sự xuất hiện của các chế độ "bán tổng thống",
nghĩa là vừa có một tổng thống vừa có một thủ tướng. Tổng thống vừa là nguyên
thủ quốc gia vừa chia sẻ một phần quyền hành pháp, nhiều hay ít theo quy định của
hiến pháp, với một thủ tướng chịu trách nhiệm trước quốc hội trong đa số các
trường hợp. Tổng thống do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra nên uy thế rất lớn,
ngang hàng với một tổng thống trong chế độ tổng thống thuần túy ngay cả khi quyền
hiến định có thể khác. Uy thế này là một bảo đảm cho ổn vững chính trị, tương tự
như một chế độ tổng thống, bù lại cái giá phải trả là, một mặt, một số bất lợi
của chế độ tổng thống và, mặt khác, những mâu thuẫn về thẩm quyền không tránh
khỏi trong nội bộ hành pháp giữa tổng thống và thủ tướng.
Các chế độ bán tổng thống
có tác dụng giảm bớt những bất lợi của chế độ tổng thống bằng cách dung hòa nó
với chế độ đại nghị. Đã có một số chế độ bán tổng thống thành công. Tuy nhiên,
chế độ bán tổng thống là một chế độ rất phức tạp, bản chất và nội dung chế độ
có thể thay đổi tùy theo những yếu tố tình cờ: tổng thống và thủ tướng cùng đảng
hay khác đảng, nhiệm kỳ của tổng thống và của quốc hội ngắn dài bằng nhau hay
khác nhau, tổng thống hay quốc hội mới được bầu gần đây, v.v.
Trong một chế độ đại nghị,
quyền hành pháp ở trong tay một thủ tướng do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm
trước quốc hội. Như thế khi bầu ra một quốc hội, một cách gián tiếp, người dân
cũng chọn lựa một thủ tướng. Ưu điểm của chế độ đại nghị là người dân bầu trước
hết cho một dự án chính trị của một đảng thay vì cho một người và sau đó chọn lựa
một dân biểu trong số những ứng cử viên sinh hoạt gần gũi với họ mà họ có điều
kiện để đánh giá; qua dân biểu của họ, họ cũng có khả năng theo dõi và kiểm
soát một cách thường trực sinh hoạt của chính phủ.
Thể chế đại nghị là thể
chế dân chủ nhất và cũng là thể chế đúng đắn nhất, với điều kiện là không dẫn tới
tình trạng lạm phát chính đảng và một quốc hội tê liệt vì bị phân hóa giữa nhiều
khuynh hướng đối nghịch. Điều kiện này, như kinh nghiệm đã chứng minh, có thể
thỏa mãn được bằng cách bầu tất cả hoặc phần lớn các dân biểu quốc hội theo
phương thức bầu cử đơn danh và một vòng.
Chúng
ta chọn lựa chế độ đại nghị vì sự giản dị và tính dân chủ cao của nó.
2.2. Tổ chức chính quyền
Một thể chế tản quyền đưa
tới sự hiện hữu tất nhiên của hai nghị viện ở cấp trung ương. Thượng nghị viện đại diện cho các vùng, trong
khi quốc hội đại diện cho quần chúng. Ở mỗi vùng, chỉ cần một nghị viện giữ vai
trò của quốc hội ở cấp địa phương.
Thượng nghị viện chỉ có ở
cấp trung ương. Mỗi vùng có một số thượng nghị sĩ bằng nhau do cử tri toàn vùng
trực tiếp bầu ra, cộng đồng người Việt hải ngoại cũng sẽ được đại diện. Thượng
nghị viện có vai trò: bảo đảm sự thống nhất và hòa hợp quốc gia qua các vùng, đề
nghị các dự luật, phúc thẩm, nếu cần, các đạo luật do quốc hội biểu quyết, khuyến
cáo và đề nghị với chính phủ về các chính sách và về việc bổ nhiệm nhân sự cấp
cao. Thượng nghị viện có quyền đòi các viên chức chính quyền mọi cấp ra điều trần.
Quốc hội gồm các dân biểu
mà đại đa số sẽ được bầu theo lối đầu phiếu đơn danh và một vòng, số còn lại được
bầu theo tỷ lệ. Trong một nước Việt Nam với dân số 100 triệu, quốc hội có thể gồm
khoảng 500 dân biểu, trong đó khoảng 450 được bầu theo thể thức đơn danh và một
vòng, số còn lại bầu theo tỷ lệ trên cả nước. Việc đa số được bầu theo thể thức
đơn danh và một vòng bảo đảm rằng sẽ không có tình trạng lạm phát chính đảng và
sẽ có một đa số (của một đảng hay do liên minh của một vài đảng cùng khuynh hướng)
để thành lập một chính phủ. Thiểu số bầu theo tỷ lệ cho phép mọi đảng phái có mặt
trong quốc hội và cũng cho phép những người lãnh đạo các chính đảng có tầm vóc
quốc gia khỏi phải tranh cử tại địa phương và để tập trung cố gắng cho những vấn
đề của cả nước.
Tại mỗi vùng, phần nghị
viên được bầu theo tỷ lệ có thể cao hơn, các nghị viên có thể được bầu một nửa
theo phương thức đơn danh một vòng, một nửa theo tỷ lệ.
Để giới hạn con số các
chính đảng, cần đặt một mức tối thiểu để có thể hiện diện trong quốc hội hay nghị
viện vùng qua lối bầu tỷ lệ, thí dụ 5%.
Về hành pháp, ở cấp trung
ương, thủ tướng do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội. Các
bộ trưởng do thủ tướng chỉ định. Tại các vùng, hành pháp nằm trong tay một thống
đốc do nghị viện vùng bầu ra và chịu trách nhiệm trước nghị viện vùng.
Vị
nguyên thủ quốc gia, tổng thống, có thể do một cử tri đoàn gồm tất cả dân biểu,
thượng nghị sĩ ở cấp trung ương bầu ra. Vị nguyên thủ quốc gia này vì được bầu
ra do một cử tri đoàn hùng hậu sẽ có một uy tín rất cao. Tổng thống không giữ một
quyền hành cụ thể nào cả, nhưng là vị nguyên thủ quốc gia đúng nghĩa, đứng
ngoài và đứng trên cả lập pháp, hành pháp lẫn tư pháp, có vai trò bảo đảm sự
liên tục, ổn vững và đoàn kết của quốc gia.
Pháp Viện Tối Cao, gồm những thẩm phán được chọn trong
các luật gia, có nhiệm kỳ dài, khoảng mười năm, do tổng thống, chủ tịch thượng
nghị viện và chủ tịch quốc hội bổ nhiệm, mỗi vị một phần ba. Pháp Viện Tối Cao
có quyền phán quyết tính hợp hiến hay bất hợp hiến của các đạo luật, trọng tài
những tranh tụng giữa các cơ quan quyền lực, xét xử những cấp lãnh đạo cấp cao,
xét lại các bản án do các tòa án quốc gia cũng như địa phương.
2.3.
Các chính đảng: một thành tố nền tảng
của quốc gia
Trong
một thể chế như vậy sẽ có thể có rất nhiều chính đảng, nhưng do thể thức bầu cử
-đại đa số dân biểu được bầu theo thể thức đơn danh một vòng- ở cấp trung ương
sẽ chỉ có vài đảng lớn. Ở mỗi địa phương cũng sẽ chỉ có một số đảng địa phương
giới hạn bên cạnh các đảng có tầm vóc quốc gia.
Mọi
chế độ dân chủ đích thực đều phải trân trọng sinh hoạt chính đảng. Không thể có
sinh hoạt chính trị nghiêm túc nếu không có chính đảng. Trong hoàn cảnh nước
ta, sau bao năm dài dưới các chế độ độc tài trong đó mọi sinh hoạt chính trị bị
đàn áp, các chính đảng không những cần thiết mà còn cần được khai sinh, khuyến
khích và nuôi dưỡng. Các chính đảng là yếu tố không thể thiếu cho đất nước, và
vì thế quốc gia không những không được cấm cản mà còn phải yểm trợ sinh hoạt
chính đảng.
Các chính đảng phải tự tài trợ trước hết bằng đóng góp
của đảng viên và cảm tình viên, nhưng các đảng có tầm vóc sẽ được ngân sách tài
trợ. Bù lại, mọi phương thức kinh tài khác kể cả việc nhận ủng hộ tài chánh của
các công ty, xí nghiệp sẽ bị chế tài nghiêm khắc theo luật pháp. Một tỷ lệ khoảng
1% ngân sách quốc gia sẽ được dành cho việc tài trợ các chính đảng ở cấp trung
ương và một tỷ lệ tương đương ở cấp ngân sách vùng. Nguồn tài trợ, tại trung
ương cũng như tại địa phương, chia làm hai phần: một phần chia cho các chính đảng
theo số dân biểu hoặc nghị viên; một phần chia theo tổng số phiếu của mỗi chính
đảng. Để tránh tình trạng lạm phát chính đảng, cần ấn định một tầm vóc tối thiểu
-dựa theo số dân biểu, nghị viên hay số phiếu được bầu- để được hưởng trợ cấp. Chi
phí chính đảng này dĩ nhiên là lớn, nhiều người có thể nghĩ là quá lớn, nhưng sẽ
tránh cho chúng ta những thiệt hại còn nặng nề hơn gấp nhiều lần khi các chính đảng,
vì không được tài trợ, trở thành con tin của những thế lực tài phiệt hay khi họ
phải kiếm tài nguyên bằng những biện pháp bất chính. Một khi cộng đồng quốc gia
đã tài trợ cho các chính đảng thì bù lại cộng đồng quốc gia cũng có quyền đòi hỏi
nơi các chính đảng một sự trong sạch mẫu mực. Sinh hoạt chính trị sẽ được kính
trọng và dân chủ cũng vì thế mà lành mạnh hơn.
3.
Hiến pháp Cộng Hòa Việt Nam
Hiến
pháp Cộng Hòa Việt Nam chính thức hóa thể chế chính trị trên đây đồng thời thể
hiện quyết tâm xây dựng dân chủ theo mô hình xã hội chứa đựng trong tư tưởng nền
tảng và các định hướng lớn.
Ngay
trong lời nói đầu, Cộng Hòa Việt Nam sẽ long trọng tuyên bố coi Tuyên Ngôn Nhân
Quyền Phổ Cập của Liên Hiệp Quốc và các công ước đi kèm như là thành phần khăng
khít của hiến pháp, lấy hòa giải và hòa hợp dân tộc làm tinh thần chủ đạo của mọi
chính sách.
Ngay trong chương đầu sẽ
có những điều khẳng định trong nước Việt Nam không thể có những ý kiến cấm nêu
ra và cũng không thể có những đề tài cấm bàn đến; nhân dân và nhà nước Việt Nam
lên án nội chiến và mọi ý đồ sử dụng bạo lực để đạt mục tiêu hay giải quyết những
mâu thuẫn; nhà nước Việt Nam không tán thành và bãi bỏ án tử hình.
Sau những chương và điều
về tổ chức bộ máy nhà nước, hiến pháp cũng sẽ có một chương đặc biệt gồm những điều
có mục đích nhấn mạnh các mục tiêu quốc gia lớn: chức năng của Việt Nam là một
nước thương mại, công nghiệp, dịch vụ và du lịch; Việt Nam dồn mọi cố gắng để sống
chung trong tinh thần hữu nghị và hợp tác với các quốc gia khác, góp phần củng
cố hòa bình trong vùng và trên thế giới; trách nhiệm đặc biệt trọng đại của nhân
dân và nhà nước Việt Nam là gìn giữ và không ngừng cải thiện môi trường, không
khí, cây rừng, bờ biển, thềm lục địa và lãnh hải.
Để
xây dựng luật pháp bắt đầu từ hiến pháp chúng ta chọn phương pháp thực nghiệm,
nghĩa là ban hành, hoặc sửa đổi để giữ lại, những bộ luật căn bản giản dị nhưng
chính xác và minh bạch lúc ban đầu, sau đó dựa theo các án lệ để giải quyết những
trường hợp tương tự, đồng thời bổ túc và chỉnh sửa các bộ luật.