Dự Án Chính Trị: Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (Chương 5) (a)
Muốn như thế chính quyền, người đại diện và hành động nhân danh tổ quốc, phải
là một chính quyền lương thiện, khiêm tốn, cần kiệm và tận tụy, quý trọng từng
người dân và để cho mỗi người thấy rõ ràng mình được quý trọng. Chính quyền ấy
sẽ hóa giải mọi hận thù, sẽ nhân danh sự liên tục quốc gia để xin lỗi, phục hồi
danh dự và bồi thường thiệt hại cho mọi nạn nhân của những oan ức. Chính
quyền ấy sẽ thường trực cảnh giác để không một thành phần dân tộc nào cảm thấy
bị bỏ rơi. Chính quyền ấy sẽ không bắt ai phải yêu nước, trái lại sẽ dồn
mọi cố gắng tạo điều kiện để mọi người có thể yêu nước.
Để làm lại đất nước sau sự tàn phá của chế độ cộng sản chúng ta sẽ phải đổi mới
hoàn toàn hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, quan hệ giữa nhà nước và người
dân, quan hệ giữa nước ta và thế giới. Chúng ta cũng sẽ phải xét lại vai trò
của xã hội dân sự và tầm quan trọng của giáo dục, chọn lựa những giải pháp dài
hạn cho các vấn đề liên đới xã hội, môi trường và dân số.
Trên nền tảng tư tưởng vừa được trình bày chúng ta sẽ làm lại đất nước theo
những định hướng lớn sau đây.
1. Lấy tự do làm động lực để phát huy óc sáng tạo và tinh thần cầu tiến
Dân tộc ta có truyền thống giữ nước vẻ vang, nhưng bù lại ta cũng đã mất quá
nhiều thời giờ và nghị lực cho cố gắng chống ngoại xâm. Trong những tranh đấu
cam go ấy ta luôn luôn phải đề cao kỷ luật và sự nhất trí, luôn luôn phải gác
lại những tranh cãi để đương đầu với những vấn đề cấp bách. Lịch sử chật
vật ấy một mặt khiến chúng ta có khả năng thích nghi cao với điều kiện sinh
sống nhưng mặt khác cũng làm ta dần dần mất đi cái nhìn dài hạn, sáng kiến, óc
phát minh và tinh thần mạo hiểm.
Chúng ta có một bờ biển dài và một đại dương hiền hậu, nhưng biển cả hầu như
không có một tiếng gọi nào với chúng ta cả. Chúng ta đã thiếu hẳn quyết tâm
chinh phục và tận dụng đại dương. Chúng ta không có kỹ thuật đóng tàu và
đi biển, không có đội thương thuyền, không có những nhà hải hành lớn. Cho tới gần
đây chúng ta đã chỉ sống với đất như một dân tộc lục địa. Chúng ta đã hài lòng
với khuôn mẫu Khổng Mạnh từ đời này qua đời khác mà không ý thức rằng văn hóa
Khổng Giáo là một văn hóa nô lệ làm thui chột trí tuệ và tha hóa con người,
trước hết là trí thức. Khuôn mẫu độc đoán và hà khắc đó, sau khi đã cho phép
chúng ta đạt những thành tựu ban đầu, đã bắt chúng ta dẫm chân tại chỗ trong
nhiều thế kỷ tiếp theo.
Óc phê phán và sáng tạo, tinh thần mạo hiểm và cầu tiến là những điều chúng ta
phải học và tập quen. Muốn như thế chúng ta phải khuyến khích và tôn vinh tự do
suy nghĩ và phát biểu. Chúng ta cần nâng lên hàng một nguyên tắc là trong nước
Việt Nam tương lai sẽ không thể có những vấn đề cấm bàn đến và cũng không thể
có những ý kiến cấm nêu ra. Không một người Việt Nam nào có thể bị trừng phạt
vì lối sống của mình hay vì những gì mình phát biểu, trừ trường hợp trực tiếp
kêu gọi bạo lực.
2. Phát huy lòng yêu nước tự nguyện
Trong gần suốt dòng lịch sử chúng ta đã chỉ sống dưới những chế độ quân chủ
tuyệt đối coi đất nước là của riêng một dòng vua, khi không bị ngoại thuộc.
Lòng yêu nước của chúng ta vì vậy không có điều kiện để phát triển. Khi ý niệm
quốc gia như là của mọi người và phải được sự đóng góp của mọi người xuất hiện,
do hậu quả của một di sản trong đó vua là trời và dân là nô lệ, nó đã mau chóng
bị tuyệt đối hóa. Tổ quốc trở thành thiêng liêng, tối thượng, không có trách
nhiệm nào và không chấp nhận một đòi hỏi nào. Tổ quốc đó đã được dùng làm chiêu
bài cho quá nhiều tội ác. Chiến tranh, tang tóc, thất vọng, sự chịu đựng quá
lâu một chế độ độc tài vừa tồi dở vừa bạo ngược, mặc cảm thua kém các dân tộc
khác làm cho lòng yêu nước của chúng ta bị tổn hại trầm trọng. Chính vì lòng
yêu nước không mạnh mà chúng ta đã để cho Đảng Cộng Sản, một đảng mà lý tưởng
là phục vụ cho một phong trào quốc tế thay vì đất nước và tôn sùng một chủ
nghĩa chủ trương xóa bỏ quốc gia, lôi kéo được một số đông đảo đồng bào và
khống chế chính trường. Chính vì ý chí và lòng yêu nước đã hao mòn mà ngày nay
chúng ta đã không phản ứng đủ quyết liệt trước một chế độ độc tài đảng trị coi
đất nước là của riêng mình như các vua chúa ngày xưa, trong khi cả nhân loại
đang tiến về dân chủ và chính chúng ta cũng biết đất nước rất cần dân chủ.
Nhưng chúng ta là người Việt Nam, và tương lai của chúng ta gắn liền với tương
lai của đất nước Việt Nam. Chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là xây dựng
một tương lai Việt Nam chung. Và để xây dựng tương lai chung đó, lòng yêu nước
vẫn là mẫu số chung bắt buộc. Chúng ta cần một sức bật mới của lòng yêu nước.
Chúng ta cần phục hồi và phát minh lại lòng yêu nước.
Chúng ta cần xác định lòng yêu nước như một tình cảm tự nguyện của những con
người tự do, ràng buộc mật thiết với nhau để xây dựng một tương lai chung cho
mình và cho con cháu. Chúng ta cần để cho mỗi người yêu nước theo cách của
mình, chúng ta không thể để cho lòng yêu nước bị đồng hóa với sự tán thành một
chủ nghĩa. Chúng ta cần hòa giải người Việt Nam với đất nước. Chúng ta cần một tổ
quốc hiền hòa thay vì dữ tợn, một tổ quốc có trái tim thay vì có nanh vuốt, một
tổ quốc đáng yêu thay vì đáng sợ và đáng ghét, một tổ quốc khuyến khích thay vì
cấm đoán, một tổ quốc có trách nhiệm và gần gũi với mọi người thay vì quá
thiêng liêng đến nỗi trở thành trừu tượng và xa cách, một tổ quốc của nhân
quyền và dân quyền.
Muốn như thế chính quyền, người đại diện và hành động nhân danh tổ quốc, phải
là một chính quyền lương thiện, khiêm tốn, cần kiệm và tận tụy, quý trọng từng
người dân và để cho mỗi người thấy rõ ràng mình được quý trọng. Chính quyền ấy
sẽ hóa giải mọi hận thù, sẽ nhân danh sự liên tục quốc gia để xin lỗi, phục hồi
danh dự và bồi thường thiệt hại cho mọi nạn nhân của những oan ức. Chính
quyền ấy sẽ thường trực cảnh giác để không một thành phần dân tộc nào cảm thấy
bị bỏ rơi. Chính quyền ấy sẽ không bắt ai phải yêu nước, trái lại sẽ dồn
mọi cố gắng tạo điều kiện để mọi người có thể yêu nước.
Cùng với dân chủ, tự do, ý kiến và sáng kiến, nhưng trên tất cả, lòng yêu nước
sẽ là một vũ khí chủ yếu giúp chúng ta chấp nhận di sản mà Đảng Cộng Sản để lại
và nắm tay nhau cùng chinh phục tương lai.
3. Tôn trọng và phát huy xã hội dân sự
Mọi quốc gia văn minh đều phải đặt nền tảng trên xã hội dân sự. Một trong những
lý do chính khiến chúng ta tụt hậu bi đát so với các nước khác là sự thiếu vắng
một xã hội dân sự đúng nghĩa. Xã hội dân sự là toàn thể các giáo hội, hiệp hội,
câu lạc bộ, các tổ chức thiện nguyện, các nghiệp đoàn, hợp tác xã, công ty, doanh
nghiệp. Nói chung, đó là tất cả các kết hợp của người dân, được thành lập ngoài
chính quyền để cùng theo đuổi một số mục đích chung và không nhắm tranh giành
quyền lực chính trị.
Ý niệm xã hội dân sự đã xuất hiện cùng một lúc với các xã hội văn minh; trong
nhiều ngôn ngữ phương Tây cụm từ xã hội dân sự cũng có nghĩa là xã hội văn
minh. Đó là những sợi dây chằng chịt gắn bó những con người với nhau và gắn bó
con người với xã hội. Những sợi dây nối kết đan xen đó tạo ra sự phong phú và
bền chắc của quốc gia. Các kết hợp công dân tạo thành xã hội dân sự cũng là
những cái nôi cho ý kiến, sáng kiến và tiến bộ. Một xã hội dân sự mạnh bảo đảm
các ý kiến mới được nảy sinh nhanh chóng, các mâu thuẫn được phát hiện và giải
quyết kịp thời, xã hội không ngừng tiến hóa trong hòa bình và trật tự. Quan
trọng hơn, một xã hội dân sự lành mạnh còn đem lại điều mà ta có thể gọi là
phép mầu của sự kết hợp. Đó là hiệu ứng vượt trội, nghĩa là hiện tượng một kết
hợp có thể làm nẩy sinh những đặc tính và khả năng hoàn toàn mới không hề có
trong các thành tố cấu tạo. Thí dụ như sự kết hợp của các hạt cơ bản trong
những điều kiện đặc biệt khác nhau đã tạo ra các nguyên tử; đến lượt các nguyên
tử kết hợp với nhau tạo ra các phân tử, rồi các phân tử kết hợp với nhau làm
nẩy sinh sự sống. Hay sự chuyển động phối hợp của các nơ-ron tạo ra tình cảm và
ý kiến. Các chế độ độc tài, nhất là độc tài cộng sản, trong khi bóp nghẹt xã
hội dân sự đã làm mất đi của các dân tộc khả năng vượt trội này. Có thể đây là
lý do giải thích sự hơn hẳn của các xã hội dân chủ so với các chế độ độc tài.
Trong mô hình xã hội của dự án chính trị này, xã hội dân sự sẽ được trân trọng
và khuyến khích, hơn thế nữa còn được giao phó một vai trò quan trọng là thực
hiện liên đới xã hội, giúp đỡ và bênh vực những người yếu kém và thiếu may mắn.
Mọi kết hợp đều tạo ra sức mạnh. Sức mạnh của xã hội dân sự là sức mạnh tổng
hợp, nhưng không bao giờ thống nhất, của các kết hợp công dân có khi cùng hướng
với nhau, có khi biệt lập với nhau và cũng có khi đối chọi với nhau. Sức mạnh
của xã hội dân sự từng lúc và từng cơ hội hòa nhập với nhà nước hay đối lập với
nhà nước, nhưng lúc nào cũng ảnh hưởng trên nhà nước và không bao giờ có tham
vọng tranh quyền với nhà nước bởi vì nó không có và không thể có tham vọng
chính trị.
Xã hội dân sự đảm bảo sự năng động của xã hội và đồng thời cũng bảo đảm tự do,
dân chủ, nhân quyền, ngăn chặn mọi ý đồ độc tài chuyên chính. Mọi chế độ độc
tài bạo ngược đều nhắm trước hết tiêu diệt xã hội dân sự. Bản chất của các chế
độ độc tài là dựa trên một thiểu số để khống chế một xã hội phân hóa. Các bạo
quyền không cần dân chúng tin yêu mình mà chỉ cần người dân đừng gắn bó với
nhau để không có sức đề kháng. Không gì thỏa mãn các tập đoàn độc tài hơn là sự
thờ ơ và vô cảm của một quần chúng bất lực vì chia rẽ.
Triết lý của một chế độ dân chủ, trái lại, coi xã hội dân sự là thành tố áp đảo
và nền tảng của quốc gia; vì thế vai trò của nhà nước là làm cho các kết hợp
công dân ngày càng đông đảo, không ngừng tiến lên và mạnh lên để đóng góp tích
cực cho sự phồn vinh của xã hội. Nhà nước dân chủ đa nguyên tự coi mình là công
cụ của xã hội dân sự với sứ mệnh bảo đảm hoạt động lành mạnh của xã hội dân sự,
để xã hội dân sự tạo hạnh phúc cho các công dân. Đó không phải là một sự từ
nhiệm mà là một triết lý chính trị mới của một chính quyền đủ tự tin để đặt
lòng tin vào các công dân. Trong quan hệ với xã hội dân sự, nhà nước dân chủ đa
nguyên tự coi mình là người trọng tài, phối hợp và thể hiện những nguyện vọng
của xã hội dân sự. Nhà nước phục vụ chứ không khống chế xã hội dân sự.
Sẽ không thể có một cản trở nào cho sự thành lập và phát triển của các kết hợp
công dân. Đặc biệt các hiệp hội không có mục đích lợi nhuận sẽ chỉ cần khai báo
sự thành lập chứ không cần giấy phép hoạt động. Các hiệp hội có mục đích văn
hóa, xã hội còn có quyền đòi hỏi nhà nước giúp đỡ.
(còn tiếp)