Dân ta nhớ sử nước ta (Hoàng Khải Thụ-Anhbasam)
Năm 1978 Đặng Tiểu Bình trở
lại cầm quyền. Sau khi sang thăm Mỹ vào đầu năm 1979, tháng 02/1979 ông
phát động đánh Việt Nam. Về chính trị, cuộc chiến này không thể không
đánh. Cuộc chiến với Việt Nam của Đặng Tiểu Bình thực sự đã đưa Trung
Quốc ra khỏi cái phe xã hội chủ nghĩa. Ông dùng chiến tranh để vạch rõ
ranh giới Trung Quốc với các nước xã hội chủ nghĩa. Cuộc chiến này vì
chính chúng ta, vì cải cách mở cửa của Trung Quốc. Trung Quốc không thể
cải cách mở cửa mà không có viện trợ của các nước Phương Tây, đứng đầu
là Mỹ.
Ngày 17/02/1979 Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gây chiến xâm lược biên giới Việt Nam
Ngày 19/12/2012 đại tá Trần Đăng Thanh,
Phó giáo sư Tiến sĩ Nhà giáo ưu tú của Học viện chính trị Bộ quốc phòng
giảng về Biển Đông cho các vị lãnh đạo các trường đại học Việt Nam, gồm
các Bí thư đảng ủy, các Hiệu trưởng, đã nói một đoạn như sau: “trong
hơn 1000 năm Bắc thuộc, trên dưới hai chục lần các triều đại phong kiến
Trung Quốc đã từng xâm lược Việt Nam. Từ nhà Tùy, nhà Đường, từ đại
Tống, đại Minh, đại Nguyên, đại Thanh, đại đại gì đi chăng nữa thì đều
bị Đại Việt ‘đánh cho nó chích luân bất phản, cho phiến giáp bất hoàn’
… đánh cho phải chui ống đồng trốn chạy về nước. Đó là điều rõ ràng
chúng ta có quyền tự hào dân tộc của chúng ta. Hơi buồn cái là sinh viên
thanh niên chúng ta hiện nay không biết lịch sử”.
Để tránh lặp lại nỗi buồn đó, bài tóm
tắt ngắn gọn dưới đây sẽ giúp sinh viên thanh niên học sinh dễ nhớ một
sự kiện lớn trong lịch sử hiện đại của nước ta đã xảy ra năm 1979.
Ngày bắt đầu và ngày kết thúc cuộc chiến biên giới Việt – Trung 1979:
– Ngày Trung Quốc bắt đầu gây ra cuộc chiến: 17/02/1979
– Vùng chiến sự: Toàn tuyến biên giới
phía bắc Việt Nam, bao gồm 6 tỉnh Móng Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà
Giang, Lào Cai, Lai Châu.
-Ngày Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước: 05/03/1979
– Ngày Trung Quốc rút hết quân về nước: 16/03/1979
Những sự kiện lớn xảy ra trước ngày bắt đầu cuộc chiến:
– Ngày 03 /11/1978: Liên Xô và Việt Nam ký Hiệp định hợp tác
– Ngày 07/12/1978: Ủy ban quân sự trung ương Trung Quốc quyết định mở cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979.
– Tháng 12/1978: Đặng Tiểu Bình tuyên bố trên Đài truyền hình Trung Quốc “ Phải dạy cho Việt Nam một bài học “.
– Ngày 22/12/1978: Trung Quốc cắt đứt đường xe lửa liên vận đến Việt Nam.
– Tháng 01/1979: Trung Quốc cắt đứt đường bay Bắc Kinh – Hanoi
– Cũng trong tháng 01/1979: Đặng Tiểu Bình hoàn thành chuyến công du sang Mỹ.
Lực lượng tham chiến của mỗi bên:
Trung Quốc:
Huy động lực lượng của 2 quân khu là Đại
quân khu Quảng Châu do tướng Hứa Thế Hữu làm Tư lệnh, có Bộ chỉ huy
quân khu đóng ở thành phố Nam Ninh tỉnh Quảng Tây và Đại quân khu Côn
Minh do tướng Dương Đức Chí làm Tư lệnh, có Bộ chỉ huy quân khu đóng ở
thành phố Mông Tự tỉnh Vân Nam.
Tổng số các đơn vị tham chiến gồm 32 sư
đoàn bộ binh, thuộc 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc
lập, 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn pháo binh. Tổng số quân và binh khí
kỹ thuật khoảng 300.000 người, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1260 súng
cối và dàn phóng tên lửa. Ngoài ra trong lực lượng dự bị có 200 tàu
chiến cỡ vừa và nhỏ của Hạm đội Nam Hải, 1700 máy bay chiến đấu MIG nhằm
phòng ngừa đối phó nếu quân Liên Xô can thiệp.
Việt Nam:
Trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy là ông Lê
Duẩn và tướng Văn Tiến Dũng. Lực lượng gồm 1 số sư đoàn của quân khu 1,
quân khu 2 và 1 số đơn vị quân địa phương. Các sư đoàn tham chiến gồm sư
đoàn 3, sư đoàn 316 A, sư đoàn 346, sư đoàn 325B, sư đoàn 345, sư đoàn
326, sư đoàn 346. Hầu hết các sư đoàn chủ lực thiện chiến còn đang ở
chiến trường Tây Nam. Các lực lượng quân sự độc lập tham chiến có các
trung đoàn bộ binh số 141, 147, 148, 197, trung đoàn pháo binh số 68.
Các trung đoàn quân địa phương tham chiến có trung đoàn số 95, 121, 254,
741. Tổng số quân tham chiến khoảng 70.000 người. Cuộc chiến nổ ra ít
lâu thì có quân tăng viện của sư đoàn 327 và sư đoàn 337. Ngày
27/02/1979 quân đoàn 2 được lệnh triển khai trên hướng Lạng Sơn thì
Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.
Diễn biến cuộc chiến:
Chiến tranh bắt đầu vào 5 giờ sáng
17/02/1979. Trung Quốc bắt đầu tấn công trên toàn tuyến bằng bộ binh, xe
tăng, pháo binh, kết hợp với “ đội quân thứ 5 “ là người Việt gốc Hoa
làm chỉ điểm và phá hoại, cản đường tiến quân của quân Việt Nam.
Theo nhà nghiên cứu quân sự của Trung
Quốc là Zhang Xiaming, đăng trên tạp chí nghiên cứu quốc tế 17/02/2016,
trước khi nổ ra cuộc chiến này, phần lớn sĩ quan Trung Quốc từ cấp tiểu
đoàn trở xuống còn phân vân liệu có đánh thắng được quân đội Việt Nam
hay không, vì đó là đối thủ đã vừa đọ súng với quân viễn chinh Mỹ. Trong
suốt 30 năm nay quân Trung Quốc chưa từng đánh một cuộc chiến tranh
nào. Quân được trang bị kém. Cách luyện quân đã lạc hậu. Cuộc đại cách
mạng văn hóa 10 năm đã làm cho tinh thần quân đội sa sút nghiêm trọng.
Sĩ quan cao cấp đều là tướng của Mao. Cách đánh của họ vẫn là các nguyên
tắc chiến thuật của Mao, ra đời từ thập kỷ 1930-1940. Họ chỉ có kinh
nghiệm chiến tranh du kích thời kháng Nhật trước năm 1945, kinh nghiệm
chiến tranh với quân Quốc dân đảng trước năm 1949 và kinh nghiệm chiến
tranh Triều Tiên 1950-1953, chưa có kinh nghiệm thực chiến trong chiến
tranh hiện đại.
Ngay từ ngày bắt đầu cuộc chiến, quân
Trung Quốc đã gặp phải sức kháng cự rất mạnh của quân địa phương Việt
Nam nên tốc độ tiến quân rất chậm.
Chiến sự đã diễn ra 2 giai đoạn:
Trong giai đoạn 1, cánh quân phía đông
của tướng Trung Quốc Hứa Thế Hữu chia làm 3 mũi đánh vào Lạng Sơn, Đông
Khê Cao Bằng và Móng Cái. Cánh quân phía tây của tướng Dương Đắc Chí
chia làm 3 mũi đánh vào Lào Cai, Hà Giang và Lai Châu. Trong ngày 18 và
19/02/1979 đã xảy ra những cuộc chiếc ác liệt nhất
Sau 1 tháng giao chiến, ngày 16/3/1979 quân Trung Quốc rút về nước. Cả 2 bên đều tuyên bố là mình chiến thắng.
Việt Nam tuyên bố đã đuổi hết quân xâm
lược Trung Quốc ra khỏi biên giới còn Trung Quốc thì tuyên bố đã dạy cho
Việt Nam một bài học.
Thương vong và thiệt hại của mỗi bên:
Phía Trung Quốc:
Theo nguồn tin của Việt Nam, sĩ quan và binh lính Trung Quốc chết 26.000 người, bị thương 37.000 người, 280 xe tăng bị phá hủy.
Theo Trung Quốc công bố, số binh sĩ Trung Quốc chết là 8.531 người, bị thương 21.000 người
Theo nguồn tin của Phương Tây, số binh sĩ Trung Quốc chết là 13.000 người
Phía Việt Nam:
Theo nguồn tin của Trung Quốc, số sĩ quan và binh sĩ Việt Nam chết là 30.000 người
Theo nguồn tin của Phương Tây, số binh sĩ Việt Nam chết là 8000 người
Phía Việt Nam công bố 10.000 thường dân
Việt Nam bị quân Trung Quốc giết chết. Các thị xã và thị trấn nằm trong
vùng chiến sự đều bị quân Trung Quốc hủy diệt, phá từng cây cột điện.
Tại 2 tỉnh Cao Bằng và Lào Cai, 320/320 xã và 81 xí nghiệp, hầm mỏ bị
phá hoại.
Trong bài phóng sự về cuộc chiến biên
giới Việt-Trung 1979, đăng trên báo Saigon tiếp thị, nhà báo Huy Đức kể
lại: Chỉ tính riêng tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, tỉnh
Cao Bằng, vào ngày 9/3/1979, trước khi rút về nước, quân Trung Quốc đã
giết 43 người dân thôn này, trong đó có 14 phụ nữ, 7 người đang mang
thai và 20 trẻ em. Tất cả đều bị họ giết bằng dao như quân Pôn Pốt đã
làm ở Cam Pu Chia. 10 người bị ném xuống giếng. 30 người bị chặt xác ra
từng khúc rồi vứt xuống bờ suối.
Trung Quốc gây ra cuộc chiến biên giới Việt – Trung 1979 thực sự nhằm mục đích gì?
Mục đích thực sự của Trung Quốc gây ra
cuộc chiến, do Trung tướng chính ủy Đại học quốc phòng Trung Quốc Lưu Á
Châu (nay là Thượng tướng, quân hàm cao nhất của quân đội Trung Quốc)
nóicông khai trong bài phát biểu của ông ta tại căn cứ không quân Côn
Minh tỉnh Vân nam, đăng trên tạp chí nghiên cứu quốc tế ngày 18/02/2016
như sau:
“Năm 1978 Đặng Tiểu Bình trở
lại cầm quyền. Sau khi sang thăm Mỹ vào đầu năm 1979, tháng 02/1979 ông
phát động đánh Việt Nam. Về chính trị, cuộc chiến này không thể không
đánh. Cuộc chiến với Việt Nam của Đặng Tiểu Bình thực sự đã đưa Trung
Quốc ra khỏi cái phe xã hội chủ nghĩa. Ông dùng chiến tranh để vạch rõ
ranh giới Trung Quốc với các nước xã hội chủ nghĩa. Cuộc chiến này vì
chính chúng ta, vì cải cách mở cửa của Trung Quốc. Trung Quốc không thể
cải cách mở cửa mà không có viện trợ của các nước Phương Tây, đứng đầu
là Mỹ. Nhờ cuộc chiến này, Mỹ đã ồ ạt viện trợ kinh tế, kỹ thuật, khoa
học công nghệ và cả viện trợ quân sự, tiền vốn cho Trung Quốc. Cuộc
chiến với Việt Nam năm 1979 đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một
lượng lớn viện trợ về thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố
đó mà Trung Quốc đứng vững được sau khi Liên Xô sụp đổ. Thậm chí có thể
nói bước đầu tiên của cải cách mở cửa của Trung Quốc chính là từ cuộc
chiến tranh này” (*).
Ảnh chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979