Tản mạn đầu năm: Hồ Chí Minh, người yêu nước hay kẻ cơ hội? (Trần Thảo-Anhbasam)
Nếu HCM là người yêu nước thì ông
đã không lạnh lùng tuân theo lịnh của Trung Quốc tiến hành Cải
Cách Ruộng Đất, gây cho xã hội VN tan nát với hằng trăm ngàn
cái chết oan ức, lòng người ly tán. HCM nếu yêu nước thì đã
không chỉ thị Phạm Văn Đồng ký công hàm cho Chu Ân Lai, công nhận
Hoàng Sa, Trường Sa thuộc quản hạt của Trung Quốc.
Nguyễn Hữu Đang, một kiện tướng
của Nhân Văn Giai Phẩm, từng là thiết kế sư buổi Lễ Độc Lập
ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, đã kể
lại sự thật về câu hỏi “Đồng bào có nghe tôi rõ không?” của
ông Hồ Chí Minh, rằng làm gì mà có câu hỏi đó! Chỉ là trước
khi đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, Hồ Chí Minh gỏ gỏ vào microphone và
quay qua hỏi anh nhân viên kỹ thuật “Nghe có rõ không?”. Việc
chỉ bằng cái móng tay, thế mà mấy cha tuyên giáo bưng cái móng
tay quăng lên trời, hô BIẾN một phát, y như mấy ông tiên đấu
phép trong Phong Thần, cái móng tay rùng mình, tỏa hào quang,
hóa thành vầng sáng GIẢN DỊ, YÊU DÂN của lãnh tụ tối cao!
Nhưng ít ra, vụ này còn có cái
móng tay để hô biến, chứ “chế độ ta” còn thần thông hơn nhiều,
không có lấy một sợi lông mà cũng biến hóa ra những nhân vật
thần thánh như Lê Văn Tám, Phan Đình Giót, Võ Thị Sáu v.v… và
chiến tích của hằng ngàn B52 của Mỹ rơi lộp độp trên đất bắc,
và hằng hà sa số những thửa ruộng trăm tấn trong hợp tác xã
XHCN, và đủ thứ sản phẩm hầm bà lằng của đỉnh cao trí tuệ
không thể nào kể hết.
Từ những sự kiện trên, khi đọc
những truyện dài xã nghĩa, cứ trừ hao đi 99.99 %, may ra chỉ
còn 0.01% có thể tin được, tỉ lệ này đối với những người
từng năm chìm bảy nổi trong chế độ CS thì vẫn còn cao ngất
ngưỡng!
Thế mà, với người từng sống với
chế độ, từng làm cán bộ cao cấp, Phó Tổng Biên Tập Báo Quân
Đội Nhân Dân, rồi bỏ của chạy lấy người, trốn ra nước ngoài
lưu vong như ông Bùi Tín, lại có thể “vẫn” tin tưởng khi viết:
“Khi ông Hồ đọc được luận văn ngắn của Lê Nin về vấn đề giải
phóng thuộc địa, giữa khuya ông Hồ ôm bài báo vào lòng và la
to: Ánh sáng đây rồi! Con đường giải thoát đây rồi!”
Ông Bùi Tín làm như mình có mặt ở
đó mà chứng kiến giây phút cực đỉnh sung sướng của Hồ Chí
Minh, ai mà biết lúc đó ông Hồ đang ôm bài báo vào lòng hay
đang ôm cục gạch (chân dài) nóng bỏng của kinh thành ánh sáng
Paris? Thôi thì ôm cái gì cũng sướng, sướng cho riêng ông Hồ,
chỉ phát mệt cho dân tộc Việt trong gần một thế kỷ!
Chính vì niềm tin không lay chuyển
này, nên dù đã thoát ly ra hải ngoại, không kịp trả lại thẻ
đảng trước khi bị đảng khai trừ như ông nhà báo Tống Văn Công,
ông Bùi Tín vẫn luôn, bằng cách này hay cách khác, biện hộ cho
Hồ Chí Minh. Ông mồm năm miệng mười kêu gọi hãy nhận xét một
cách công tâm, khách quan, không thành kiến về Hồ Chí Minh, nhưng
đọc những bài viết của ông Bùi Tín, người đọc nhận thấy chả
có chút gì công tâm trong đó.
Với ông Bùi Tín, ông hay dùng lối
viết giả thật lẫn lộn để đánh lừa độc giả. Ông viết rằng,
Hồ Chí Minh trốn lên tàu của Pháp để xuất dương năm 1911 chả
phải tìm đường cứu nước gì cả, mà chỉ là tìm đường sống khi
cha của ông là Nguyễn Sinh Sắc, còn có tên khác là Nguyễn Sinh
Huy, làm tri huyện Bình Khê, trong cơn say rượu, đánh chết một
nông dân, bị luận tội bãi chức, khiến cảnh nhà túng quẩn. Theo
tôi, đây là chuyện thật.
Sau đó ông Bùi Tín ” khách quan ”
cho rằng khi Hồ Chí Minh gặp gỡ những nhà ái quốc như ông Phan
Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Phan Châu Trinh v.v. ông Hồ Chí
Minh là một người yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc, tới khi ông
ta tiếp xúc với chủ nghĩa cộng sản mà cụ thể là luận văn
của Lê Nin về vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa, Hồ
Chí Minh thấy chủ nghĩa CS của Lê Nin hơn hẳn đường lối của
các cụ Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền v.v.
nên theo hẳn phía cộng sản, lúc đó, theo sự tin tưởng của ông
Bùi Tín, Hồ Chí Minh vẫn là người yêu nước, nhưng không yêu
nước theo chủ nghĩa dân tộc, mà là yêu nước theo chủ nghĩa
cộng sản. Theo tôi, đây lại là chuyện giả.
Hồ Chí Minh, ở giai đoạn đầu lêu
bêu trên đất Pháp, đã từng viết đơn xin vào học ở trường dành
đào tạo những viên chức thuộc địa, lời lẽ trong đơn xin thề sẽ
phục vụ mẫu quốc thế này, thế kia v.v. nhưng vẫn không được
chấp nhận. Tới khi gặp các cụ PVT, NTT, PCT, anh chàng vô công
rỗi nghề này bèn gia nhập. Tưởng đâu có xơ múi gì, nào ngờ
mấy cụ đó ngoài tấm lòng yêu đất nước, yêu dân tộc, mong tìm
đường xoay sở để dân tộc thoát cảnh tối tăm, nào có vật chất,
tài chánh, cũng không có lực lượng chính trị nền tảng nào
để cho anh trẻ Nguyễn Tất Thành lợi dụng, thế là a lê hấp anh
Thành ôm cầm qua thuyền khác. Hoạt cảnh anh Nguyễn Tất Thành ôm
bài báo của Lê Nin la toáng giữa đêm khuya chỉ là phép hô BIẾN
của tuyên giáo, trét vàng lên mặt lãnh tụ, chứ thật ra cũng
giống như giới ăn sương của bến Tần Hoài, Nguyễn Tất Thành
không tìm được cơ hội ở các cụ NTT, PVT, PCT nên quay mặt hướng
khác, tìm cơ hội, thế thôi!
Hãy suy nghĩ về cụ Phan Châu Trinh,
một nhà cách mạng thực sự vì dân vì nước của dân tộc Việt
Nam. Cụ Phan Châu Trinh mang trong lòng hoài bão KHAI DÂN TRÍ,
CHẤN DÂN KHÍ, VỊ NHÂN SINH của Chủ Nghĩa Duy Tân, nhưng thời thế
không thuận lợi cho lý tưởng của Cụ, khiến cho đất nước lọt
vào tay kẻ cơ hội như Hồ Chí Minh, đem dân tộc đọa đày triền
miên trong đêm dài cộng sản. Những tấm lòng sáng soi cùng nhật
nguyệt như Ức Trai Nguyễn Trãi, Tây Hồ Phan Châu Trinh, Sào Nam
Phan Bội Châu mới đáng được ghi vào sử sách như những nhà cách
mạng cho hậu thế Việt Nam noi theo. Còn Hồ Chí Minh? Nhà cách
mạng ư? Người yêu nước như cái tên Nguyễn Ái Quốc được vay mượn
đâu đó rồi chối bay chối biến ư?
Trong những cơn lốc của lịch sử
thế giới, người ta dễ tính định nghĩa những cuộc lật đổ một
chế độ này, xây lên một chế độ khác là những cuộc cách mạng,
như cuộc cách mạng Pháp 1789, cuộc cách mạng Nga 1917, cuộc
cách mạng Cuba 1959, cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 của Việt
Nam v.v. và những người tạo ra những đổi thay lệch đất nghiêng
trời này là những nhà cách mạng.
Nhưng theo tôi, khi nói tới chữ CÁCH
MẠNG, người ta nghĩ ngay tới việc thay đổi một nền tảng thối
nát, hủ lậu để xây lên một nền tảng tốt đẹp hơn, khai phóng
hơn. Nhưng bạn hãy nhìn qua lịch sử hơn hai trăm năm qua tại
những nước kể trên, chỉ có cuộc cách mạng Pháp 1789 là đem
lại cho nước Pháp nói riêng và toàn nhân loại nói chung những
tư tưởng khai phóng về dân quyền, nhân quyền, còn những cái gọi
là ” Cuộc Cách Mạng ” của Nga, Cuba, Việt Nam, Triều Tiên v.v.,
toàn bộ đều được nhân danh cách mạng vô sản, đấu tranh cho nhân
dân lao động, xóa bỏ giai cấp bóc lột, no cơm ấm áo cho giới
công nông v.v. nhưng thực chất của chúng đều là những tuyên
truyền xảo trá. Từ Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông, Fidel Castro,
Kim Nhật Thành, Hồ Chí Minh, tất cả đều là những kẻ cơ hội,
suốt đời phấn đấu để nắm quyền lực trong tay, họ lợi dụng sự
ngây thơ, cả tin của quần chúng để vận động tạo dựng lực
lượng, khi lật đổ đối thủ rồi thì họ lộ ngay bản chất muốn
làm vua.
Những Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông,
Kim Nhật Thành, Fidel Castro, Hồ Chí Minh sau khi nắm quyền lực
trong tay, họ sống đời sống cá nhân như những ông vua. Tha hồ
hưởng lạc, rượu chè gái gú, tiện nghi vật chất xa hoa hàng
đầu. Theo suy nghĩ cá nhân của tôi, khi ta dùng thành ngữ ”
Quyền lực tuyệt đối, tha hóa tuyệt đối “, có lẽ chỉ đúng với
những tầng lớp cán bộ thừa hành, những người một thời sống
lý tưởng, ngây thơ tin vào lãnh tụ tối cao, giờ nhìn quanh thấy
ai cũng đang ăn tươi nuốt sống, nên cũng nhào vô kiếm chác, lý
tưởng ngày nào được quăng vô xọt rác. Như vậy THA HÓA là một
quá trình thay đổi từ TỐT sang XẤU. Nhưng các cụ Lê Nin, Stalin,
Mao, Kim, Fidel, Hồ, bản chất của họ là như thế, THÂU TÓM
QUYỀN LỰC VÀ HƯỞNG THÀNH QUẢ. Họ có biến đổi từ tốt thành
xấu gì đâu mà nói tha (với chả) hóa?
Cụ Phan Châu Trinh, với Chủ Nghĩa
Duy Tân, mục tiêu cốt lõi là KHAI DÂN TRÍ, CHẤN DÂN KHÍ, VỊ NHÂN
SINH. Lý tưởng đó quá đẹp, quá lý tưởng, nêu bật tấm lòng
sắt son vì nước vì dân của cụ Tây Hồ. Tiếc thay, vào thời
điểm đó, có bao nhiêu người trong tầng lớp sĩ phu Việt Nam nhìn
xa trông rộng như cụ Phan, chứ đừng nói tới quãng đại quần
chúng nhân dân. Dân trí của quần chúng lúc đó so ra không khác
mấy với dân trí lúc cụ Nguyễn Trường Tộ đề nghị những cải
cách khởi đầu cho xã hội lên triều đình Nhà Nguyễn. Họ không
tin một bóng đèn chúc ngược đầu mà có thể phát sáng, thì dĩ
nhiên họ ngơ ngác trước những tư tưởng dân quyền, nhân quyền mà
tầng lớp sĩ phu có cơ may đọc được từ những ” TÂN THƯ ” được
dịch qua Hán văn của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Jean Jacques
Rousseau, Montesquieu v.v. Ngay như trong lớp sĩ phu có học, có
kiến thức lúc đó cũng không có bao nhiêu người tâm đắc với cái
nhìn của cụ Tây Hồ. Cụ Sào Nam Phan Bội Châu, người tri kỷ,
người bạn cật ruột của cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh, cũng nghiêng
về đấu tranh thiết huyết để giành độc lập cho nước nhà, tiếp
nối những phong trào đấu tranh trước đó của phong trào Văn Thân
Cần Vương của Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa
Thám, Nguyễn Thái Học v.v.
Quần chúng nhân dân lúc đó, nỗi
khổ nhân đôi khi phải sống dưới hai tầng cai trị, Phong Kiến cấu
kết với Thực Dân, họ chỉ muốn loại bỏ ngay tức khắc hai cái
ách trên cổ đó, cải thiện cuộc sống, có cơm ăn áo mặc.Thế
nên, con đường DUY TÂN của cụ Phan Châu Trinh quá dài, không thích
hợp với tầm ước vọng của người dân. Ngày nay nhìn lại lịch
sử, ta mới thấy được nỗi cô đơn vô cùng tận của cụ Phan Tây Hồ
khi nhìn quanh mình, không có những người cùng tâm chí, và nhân
dân nói chung thì ngơ ngác với tư tưởng Duy Tân.
Những chính nhân quân tử như cụ Phan
Châu Trinh, cụ Phan Bội Châu làm sao có thể núp dưới những
chiêu bài mị dân như cào bằng xã hội, chia ruộng đất, chia của
cải từ giới bóc lột cho dân nghèo, công bằng công lý cho tất
cả mọi người. Nhưng những điều ấy, đối với kẻ cơ hội như Hồ
Chí Minh, thì quá dễ dàng! Hiện thực xã hội Việt Nam lúc đó
là mảnh đất màu mở, cực kỳ thuận lợi để Hồ Chí Minh gieo
hạt giống của Chủ Nghĩa Cộng Sản. Tháng 11 năm 1945 ông tuyên
bố giải tán đảng CS, chối phăng cái gốc cộng sản của mình
bằng cách lập ra cái gọi là Hội Nghiên Cứu Mác Lê do Trường
Chinh đứng đầu, tung cán bộ đi tuyên truyền rỉ tai về chân trời
rực rỡ của đất nước khi giành được độc lập trong cuộc đấu
tranh bài phong đả thực.
Phải công nhận HCM và cán bộ của
ông ta đã chuẩn bị quá tốt, nắm bắt thời cơ rất chuẩn khi lợi
dụng cuộc biểu tình ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim của
giáo chức Hà Nội để cướp chính quyền. Và sau đó là cuộc
kháng chiến toàn quốc chống Pháp trong chín năm trời, kết thúc
với chiến thắng Điện Biên Phủ, với hiệp định Geneve chia đôi
đất nước.
Ông Bùi Tín trong bài viết của
mình, đã quy hai sự kiện Cách Mạng Tháng Tám và Kháng Chiến
Chín Năm thành công là hai thành tích, là công lao của HCM và
bộ sậu của ông ta. Nhưng thử hỏi nếu không có sự tiếp nối tinh
thần đấu tranh của quần chúng Việt Nam từ những phong trào
Cần Vương, Văn Thân của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn
Thiện Thuật, Trương Công Định, Nguyễn Thái Học v.v. thì không
chắc gì HCM và những cán bộ CS hạt nhân của ông đã thành công
dễ dàng như thế. Qua đó cho thấy bản chất cơ hội, láu cá của
HCM, không từ bất cứ thủ đoạn nào để đạt mục đích. Chỉ riêng
việc HCM chụp tấm hình với Thiếu Tá Patti của OSS tình báo
Mỹ, rồi tuyên truyền úp mở cho người dân rằng Mỹ đã hậu thuẩn
cho kháng chiến VN để tranh thủ nhân tâm, là đủ thấy tay nghề
cơ hội của HCM đã quá nhuyễn nhừ! Ông ta biến hóa màu sắc còn
nhanh hơn con tắc kè.
Một kẻ cơ hội siêu sao như thế, làm
tay sai đắc lực cho đệ tam quốc tế như thế thì thử hỏi có
tấm lòng yêu dân, yêu nước không?
Nếu HCM là người yêu nước thì ông
đã không lạnh lùng tuân theo lịnh của Trung Quốc tiến hành Cải
Cách Ruộng Đất, gây cho xã hội VN tan nát với hằng trăm ngàn
cái chết oan ức, lòng người ly tán. HCM nếu yêu nước thì đã
không chỉ thị Phạm Văn Đồng ký công hàm cho Chu Ân Lai, công nhận
Hoàng Sa, Trường Sa thuộc quản hạt của Trung Quốc. HCM nếu yêu
nước đã không nướng cả triệu thanh niên nam nữ miền b́ắc, khiến
họ sinh bắc tử nam, trong dã tâm xâm lược thôn tính miền nam
Việt Nam.
Công tích gì cho tập đoàn CSVN nói
chung và HCM nói riêng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, giành độc lập nước nhà?
Khi mà:
Tuổi hai mươi mắt nhìn đời trẻ dại
Ngỡ cờ sao rực rỡ, tô thắm màu xứ sở yêu thương
Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo phá bờ kim cổ
Tiếng mối rường rung đổ chuyển non sông
Mặt trời sự sống thổ ra từng ngụm máu hồng..
Ngỡ cờ sao rực rỡ, tô thắm màu xứ sở yêu thương
Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo phá bờ kim cổ
Tiếng mối rường rung đổ chuyển non sông
Mặt trời sự sống thổ ra từng ngụm máu hồng..
Khi mà:
Nhờ nanh vuốt của lũ thú rừng
Mà bàn tay cai trị của tên thực dân hóa ra êm ả.
Mà bàn tay cai trị của tên thực dân hóa ra êm ả.
Chỉ với mấy câu thơ, nhà thơ Nguyễn
Chí Thiện đã vạch ra bộ mặt bất nhân, tàn bạo của chế độ
CSVN. Hất bàn tay cai trị của thực dân ra khỏi cái cổ gầy
guộc, đói nghèo của dân Nam, lại rước ngay nanh vuốt của lũ
thú rừng, sắt máu, nham hiểm gấp ngàn lần thằng thực dân. Công
tích của Hồ Chí Minh là thế đó ư?
Thế mà cái cơ chế lừa bịp vĩ đại
đó, bằng bộ máy tuyên truyền, bằng văn hóa loa phường, đã đầu
độc không biết bao nhiêu tâm hồn dân Việt, đến nỗi trong vụ
biển bị nhiễm độc ở Vũng Áng, Hà Tĩnh, có người dân còn
thành tâm khấn vái ” Bác Hồ và Đồng Chí Võ Nguyên Giáp ” có
linh thiêng thì về mà chấn chỉnh đất nước.
Điều kỳ quái là, một người bình
dân bá tánh thiếu thông tin, hạn hẹp kiến thức, van vái ông Hồ
như thế còn có thể hiểu được, nhưng nghe ông Bùi Tín van vái ”
Bác linh thiêng, xin phù hộ để cho những người lãnh đạo hiện
nay mau tỉnh ngộ, sớm nhận rõ sai lầm, đi vào con đường dân chủ
chân chính.” thì quả thật là hết ý kiến!
Ông Bùi Tín từ ngày chạy ra nước
ngoài, đã nhiều lần viết kiến nghị gửi về trong nước, đề
nghị cái cơ chế ma quỷ đó sửa đổi này nọ, tất cả đều vô nằm
sọt rác, rồi ông gửi thư cho tướng Võ Nguyên Giáp (lúc đó còn
sống), đề nghị ” đồng chí Văn ” hãy đứng lên, nhưng đồng chí
Văn (cứ) thích ngồi, không thích đứng theo lời đề nghị khẩn
thiết của cựu đàn em. Rồi ông Bùi Tín tâm sự tràng giang đại
hải với giới trẻ, muốn trao gửi cho họ ước vọng của ông về
một đất nước đang trong hiểm họa Bắc Thuộc. Mới đọc những bài
viết của ông, thật là cảm động, nhưng đọc kỹ từng câu rồi
mới thấy, nhiều trường hợp câu sau chửi câu trước. Mời bạn đọc
câu ông Bùi Tín bàn về lòng yêu nước của HCM:
“Không thể nói ông Hồ không yêu
nước, ông từng bị thực dân truy lùng, xử tử vắng mặt, bị thực
dân Anh bắt giam và xử án ở Hong Kong, bị chính quyền Tưởng
Giới Thạch giam giữ hằng năm trời chỉ vì ông có ý chí đấu
tranh bất khuất cho nền độc lập nước nhà.”
Ông Bùi Tín ơi, ông Hồ giấu cái
đuôi cộng sản của ổng, và cho tới nay ông BT cũng hụ hợ giấu
dùm cho ông ta, nhưng tình báo của Pháp, của Anh, của Tưởng
Giới Thạch đâu có mù hở ông?
Một tên tay sai của cộng sản quốc tế, tàn độc, gian xảo như HCM đã chết từ đời tám hoánh rồi (1969 hay 1932?) thế mà bộ máy tuyên truyền ghê gớm của CS nói mãi nói mãi để nhập tâm người dân, đến nỗi một trường hợp khác là nhà văn Phạm Đình Trọng.
Trong bài viết ĐI THĂM CÙ HUY HÀ
VŨ, có đoạn ông Phạm Đình Trọng viết như sau: “Vì lòng yêu
nước mà Hồ Chí Minh dựng lên sự nghiệp, dựng lên nước Việt Nam
hôm nay. Cũng vì lòng yêu nước mà Cù Huy Hà Vũ bị nhà nước
do Hồ Chí Minh dựng lên bỏ tù! Sự trớ trêu, tráo trở cay đắng
đó đã nói lên một sự thật phũ phàng rằng nhà nước Việt nam
hôm nay không còn là nhà nước do Hồ Chí Minh dựng lên nữa rồi!”
Tôi không muốn đánh đồng nhà văn
Phạm Đình Trọng với ông Bùi Tín, vì nói thẳng thắn, tôi rất
có cảm tình với ông PĐT qua những bài viết rất sắc nét của
ông về thực trạng đất nước dưới sự cai trị của CSVN, những
bài viết đó cho thấy lòng lo lắng chân thành của ông PĐT đối
với hiểm họa mà đất nước đang gánh chịu. Trong khi ông Bùi Tín
thì chính ông ta còn không sòng phẳng, thành thật với chính
mình, lấy gì ông ta chân thành với ai?
Nhưng ông Phạm Đình Trọng cũng có
giới hạn đáng tiếc của mình, như đoạn văn tôi trích dẫn ở
trên. Ông PĐT, dù đã trải đời, kinh qua bao oan nghiệt của cuộc
sống dưới chế độ CSVN, mà kiến thức xem ra cũng không hơn người
bá tánh bình dân trong vụ Vũng Áng, Hà Tĩnh, van vái ông Hồ
và ông Võ Nguyên Giáp có linh thiêng hãy về mà cứu nước, cứu
dân! Ông PĐT tin rằng sau khi ông Hồ (chuyển sang) từ trần, đảng
CSVN mới dẫn đất nước tới tình trạng bê bối như ngày nay. Coi
bộ mối tình đầu của ông Phạm Đình Trọng với “lãnh tụ tối
cao” là không dễ gì phai nhạt?
Tôi thật tiếc cho ông!
Tôi không là ngự sử văn học hay ngự
sử chính trị để dùng cây gậy định hướng cho ai cả, nhưng tôi
(chủ quan) xin thưa với ông Phạm Đình Trọng rằng nếu Hồ Chí
Minh (giả hay thật?) không nhắm mắt lìa đời năm 1969, thì tôi tin
rằng con, cháu của chúng ta hôm nay có thể không còn dùng
tiếng Việt mẹ đẻ nữa rồi!
Nhưng tôi lại thấy lòng mình được
an ủi một chút khi đọc một đoạn văn của nhà văn Vũ Thư Hiên
trong tác phẩm ĐÊM GIỮA BAN NGÀY của ông ấy, đoạn viết về cái
gọi là VỤ ÁN XÉT LẠI CHỐNG ĐẢNG bắt đầu vào tháng 7 năm
1967. Trong vụ án mà không ai ngờ trước là nó sẽ xảy ra như
thế, ông Vũ Thư Hiên và thân phụ của ông là cụ Vũ Đình Huỳnh,
bí thư trong khoảng 20 năm của Hồ Chí Minh, đều bị bắt giam vào
ngục tối. Đoạn văn như sau:
“Từ Nam Định trở về, nhìn cảnh nhà tan hoang, tôi hỏi mẹ chuyện xảy ra thì bà cười cay đắng, mắt ướt nhòe:
– Chúng nó đến, con có tưởng tượng
được không, còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa kìa. Tay bố to,
còng không vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến bật máu ra mà
chúng nó vẫn cố khóa bằng được. Đến khi biết khóa không nổi,
chúng nó lấy thừng trói giật cánh khủyu rồi điệu bố ra xe
bịt bùng chở đi. Lúc chúng nó khám nhà, mẹ quẳng cái khung
kính có giấy chứng nhận Huân chương Kháng chiến hạng nhất của
bố vào mặt chúng nó: ” Các người khám kỹ cái này đi, xem ở
mặt trái của nó có gì?”. Chúng nó xử sự, hừm, đúng như cụ
Nguyễn Du tả: “Người nách thước, kẻ tay đao. Đầu trâu mặt ngựa
ào ào như sôi…”
Trong lòng bà ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt.
– Lòng người khôn lường, con ạ! Mới
biết không thiếu gì kẻ quên đạo làm người khi ngồi vào ghế
vương giả”. (Hết trích)
Một vị nữ lưu như thân mẫu của nhà
văn Vũ Thư Hiên lại có sự kiên cường và nhạy bén với nhân
tình thế thái như thế thật khiến tôi bái phục và cảm thấy
rất an ủi trong lòng. Mong sao trên đất nước trong tình trạng
cực kỳ bi thảm hiện nay có thêm nhiều người sáng mắt sáng
lòng như bà cụ.
Ôi Hồ Chí Minh, một kẻ cơ hội “vĩ
đại”, đã chết từ thời tám hoánh rồi, nhưng tượng của ông vẫn
tràn ngập miếu đền, trường học, cơ quan, hình ảnh của ông vẫn
là tấm bình phong cho lũ tay chân bám vào để thống trị dân
tộc, gây ra những oan nghiệt, những sầu thảm, đau thương cho dân
tộc Việt Nam này. Biết đến bao giờ?