Một suy nghĩ về ngày 30 tháng 4 (TL 115) (Nguyễn Gia Kiểng)
"...đó sẽ là ngày nghỉ, với
mọi tiếng động đột nhiên lắng xuống, rồi một buổi lễ được cử hành tại
Côn Đảo, nơi một tượng đài được dựng lên tưởng niệm những người đã bỏ
mình trên đường vượt biển. Chúng ta sẽ thắp hương và đặt hoa trên mộ các
tử sĩ và nạn nhân của mọi bên. Đó sẽ là ngày Hòa Giải và Hòa Hợp Dân
Tộc. Chúng ta sẽ cùng nhau tâm niệm ý nghĩa thực sự của ngày 30-4-1975 :
đất nước đã chọn đi vào ngõ cụt vì kém cỏi trong tư tưởng và nhận thức.
Đối với trí thức Việt Nam, đó cũng là ngày của tự xét và ăn năn..."
Một suy nghĩ về ngày 30 tháng 4 (TL 115) (Nguyễn Gia Kiểng)
Đã có vô số bài và sách của người Việt Nam cũng
như người ngoại quốc về biến cố 30-4-1975. Đó là ngày chấm dứt một cuộc
chiến đặc biệt nhất trong lịch sử Việt Nam, là ngày lãnh thổ Việt Nam
thống nhất và hòa bình sau rất nhiều năm chia cắt và nội chiến, đó là
ngày ra đời của cộng đồng người Việt hải ngoại ; đó cũng là ngày mà Việt
Nam bắt đầu một tiến trình tụt hậu bi đát, và đó cũng là ngày bắt đầu
tiến trình sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản và phong trào cộng sản thế
giới.
Chúng ta sẽ không bao giờ phân tích đến nơi đến chốn những
nguyên nhân, ý nghĩa và hậu quả của biến cố trọng đại này. Và vì thế
chúng ta cần tiếp tục cố gắng tìm hiểu nó. Sau đây là một suy nghĩ trong
nhiều suy nghĩ.
Trước hết là một nhận định sai cần được xét lại.
Quan
điểm chung của thế giới, kể cả người Mỹ, là nước Mỹ đã thất bại trong
cuộc ''phiêu lưu quân sự tại Việt Nam''. Bề ngoài thì quan điểm này
đúng, người Mỹ đã phải rút lui khỏi Việt Nam, chế độ Việt Nam Cộng Hòa
mà họ bảo vệ đã sụp đổ và đầu hàng không điều kiện. Nhưng nếu nhìn về
mặt chiến lược toàn vùng và toàn cầu thì kết quả lại khác.
Người
Mỹ can thiệp vào Việt Nam trước hết là để chặn đứng sự bành trướng của
phong trào cộng sản tại Châu Á và mục đích này hầu như đã đạt được trọn
vẹn.
Indonesia từ sau thế chiến II chuyển dần vào quỹ đạo cộng
sản. Đảng cộng sản Indonesia, với gần một triệu đảng viên, là đảng cộng
sản mạnh thứ nhì tại Châu Á và kiểm soát chính quyền Sukarno. Indonesia
là nước đông dân thứ ba tại Châu Á với một vị trí chiến lược đặc biệt
quan trọng. Nếu Indonesia lọt vào quỹ đạo cộng sản thì toàn bộ giao
thông giữa Châu Âu và Trung Đông với Châu Á bị phong tỏa và Châu Á hoàn
toàn bị khống chế. Indonesia quan trọng gấp nhiều lần Việt Nam, chưa nói
riêng miền Nam Việt Nam. Tại đây Hoa Kỳ đã hoàn toàn thắng lợi. Sự biểu
lộ quyết tâm và sức mạnh của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã đem lại tin tưởng
cho quân đội Indonesia chưa hoàn toàn bị đảng cộng sản kiểm soát, quân
đội Indonesia trở thành một đe dọa cho đảng cộng sản Indonesia, buộc
đảng này phải ra tay trước, tổ chức đảo chánh, để rồi thất bại và bị tàn
sát trong vòng hai tuần lễ năm 1965. Không phải là một sự tình cờ mà
chỉ một năm sau khi Hoa Kỳ đổ bộ ào ạt vào Việt Nam, tình hình Indonesia
thay đổi hẳn. Sau khi đã lật ngược được thế cờ tại Indonesia, mục tiêu
chiến lược chính của Hoa Kỳ tại Châu Á đã đạt được, Việt Nam không còn
quan trọng nữa.
Nhưng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục can thiệp tại Việt Nam
sau đó, bỏ ra hàng chục tỷ đô la mỗi năm vì hai lý do : một là họ tin có
thể thắng luôn tại Việt Nam, hai là họ cũng cần củng cố thêm các chế độ
đồng minh tại Châu Á. Khối lượng đô la mà Hoa Kỳ đổ vào Việt Nam đã là
một sức bật kinh tế quan trọng cho Nhật Bản, Đài Loan, Đại Hàn và Thái
Lan. Khi Hoa Kỳ quyết định rút lui khỏi Việt Nam năm 1973, các nước này
đều đã vững mạnh. Nhật đã thành một đại cường, Đài Loan và Đại Hàn những
nước kỹ nghệ hóa, Thái Lan đã cất cánh.
Cuộc chiến Việt Nam cũng
đã làm kiệt quệ Liên Xô và khối cộng sản. Người Mỹ đã phí tổn rất nhiều
tại Việt Nam, nhưng họ quá mạnh, nền kinh tế của họ chỉ giảm sút đà
tăng trưởng. Liên Xô và khối cộng sản chi phí ít hơn nhưng đã chi phí
quá sức và bị kiệt quệ.
Chiến thắng ngày 30-4-1975 cũng đã rất
độc hại cho khối cộng sản, do tình trạng suy kiệt và tuyệt vọng trong
một cuộc cạnh tranh hòa bình, họ phải chọn lựa chiến lược liều lĩnh
''thừa thắng xông lên'' tương tự như Hitler quyết định tấn công Liên Xô
năm 1942 và làm mất đi một cơ hội duy nhất để vươn lên, đó là cuộc khủng
hoảng dầu hỏa trong suốt thập niên 1970. Giá dầu từ 6 USD năm 1970 tăng
lên đến 35 USD một ba-rin năm 1980, các nước tư bản đều khốn đốn vì dầu
lửa trong khi Liên Xô, mà nguồn lợi chủ yếu là xuất khẩu dầu, bỗng dưng
thấy thu nhập của mình tăng gấp bốn, năm lần. Liên Xô đã sử dụng ưu thế
giai đoạn này và khí thế của chiến thắng Việt Nam để ào ạt tiến công
khắp nơi. Các lực lượng cộng sản chiếm chính quyền tại Việt Nam,
Kampuchia, Lào, Afghanistan, Ethiopia, Angola, Nicaragua và nhiều nước
Châu Phi khác. Liên Xô cũng tài trợ cho nhiều cuộc chiến tranh giải
phóng tốn kém khác tại khắp nơi. Để làm hậu thuẫn cho các cuộc tiến công
này, họ phung phí đại bộ phận tài nguyên vào việc chế tạo vô số vũ khí :
bom nguyên tử, tàu ngầm, chiến xa. Nhưng cuộc tiến công này đã không
đánh gục được khối tư bản, và khi cuộc khủng hoảng dầu lửa chấm dứt,
Liên Xô hoàn toàn tuyệt vọng. Gorbachev không phải là người chủ trương
giải thể Liên Xô và khối cộng sản, nhưng khi lên làm chủ Liên Xô năm
1985, ông không còn chọn lựa nào khác.
Cho tới nay, nhiều người
vẫn mừng rằng cuộc thư hùng giữa hai khối tư bản và cộng sản đã không
đưa đến thế chiến. Sự thực thì đã có thế chiến, nhưng là một thế chiến
giới hạn ở một số địa phương, trong đó mặt trận Việt Nam là chính. Tình
hình không thể khác, nghĩa là không thể có chiến tranh trực tiếp giữa Mỹ
và Liên Xô, vì một mặt Liên Xô biết rõ sức mạnh hơn hẳn của võ khí hạt
nhân Mỹ và mặt khác Hoa Kỳ thấy không cần thế chiến cũng sẽ thắng được
Liên Xô. Nhưng phải nói đã có chiến tranh giữa hai khối tại Việt Nam và
cuộc chiến đã kết thúc một cách kỳ cục : khối cộng sản đã toàn thắng
trong một hiệp nhưng bị chấn thương tới mức không còn đủ sức tiếp tục
các hiệp sau, và sau cùng đã bỏ cuộc.
Trong cuộc chiến Việt Nam,
người Mỹ không phải chỉ đã đạt được mục tiêu chiến lược mà họ còn thắng
lợi cả về mặt tâm lý. Trong những năm can thiệp vào Việt Nam, họ đã
chứng tỏ được bản chất dân chủ tự do thực sự của họ và đã chinh phục
được cảm tình người Việt. Hiện nay tại Việt Nam không còn ai thù ghét
Mỹ, trái lại mọi người đều mong mỏi một sự hợp tác tích cực hơn với Hoa
Kỳ. Nếu có được một cái nhìn bao quát và sáng suốt hơn, những người lãnh
đạo cộng sản Việt Nam đã phải thấy rằng chiến thắng của họ chỉ là một
nước cờ trong một ván cờ, chẳng có gì đáng để tự cao tự đại.
Chúng ta hiểu rõ bản chất cuộc chiến này chưa ?
Lịch
sử Việt Nam đầy rẫy chiến tranh, Việt Nam có nhiều chiến tranh hơn bất
cứ một dân tộc nào trên thế giới, nhưng cuộc chiến này khác hẳn với
những cuộc chiến tranh trước. Nó không phải là một cuộc chiến tranh
chống ngoại xâm. Nó là một cuộc chiến mà người ta dụ cho quân nước ngoài
đến và mong nó đến để đánh. Nó vừa là một cuộc nội chiến vừa là một
cuộc thế chiến. Nó cũng là cuộc chiến làm thiệt mạng nhiều người Việt
Nam nhất.
Nhưng nét đặc biệt chưa từng có trong lịch sử Việt Nam
là đây là lần đầu tiên mà người Việt Nam tàn sát nhau vì ý thức hệ. Cho
tới nay tại Việt Nam đã có rất nhiều cuộc chiến, nhưng các bên lâm chiến
tuy tranh giành nhau quyền cai trị vẫn đều đồng ý với nhau về một khuôn
mẫu chính trị : chế độ quân chủ tuyệt đối đặt nền tảng trên Khổng giáo.
Lần này hai bên không những tranh quyền mà còn tranh giành để áp đặt
hai chế độ chính trị đối nghịch : chế độ dân chủ kiểu phương Tây và chế
độ cộng sản. Cũng vì thế mà đây là lần đầu tiên người Việt Nam thù ghét
nhau vì ý kiến và thành phần xã hội. Lần đầu tiên có một lực lượng Việt
Nam chủ trương tiêu diệt một số thành phần xã hội Việt Nam (trí phú địa
hào đào tận gốc trốc tận rễ).
Về bản chất, cuộc chiến này là một
cuộc khủng hoảng canh tân. Ý thức hệ quân chủ Nho giáo đã sụp đổ. Phải
thay thế nó bằng một chế độ mới và người Việt Nam tàn sát nhau vì không
đạt được tới đồng thuận trên một chế độ mới. Phải nói ngay rằng sự kiện
một dân tộc tàn sát nhau vì bất đồng ý kiến chứng tỏ lòng yêu nước sa
sút, tinh thần dân tộc không còn đủ mạnh để người ta nhìn nhau trước hết
như là những đồng bào. Thay vì nhìn người trước mặt là một người Việt
Nam, người ta lại chỉ thấy đó là một người quốc gia hay một người cộng
sản.
Một cách thô vụng, phe quốc gia, hay chính quyền miền Nam,
bảo vệ cho các giá trị tự do và dân chủ của phương Tây. Tự do thiếu sót
và xô bồ nhưng vẫn có tự do. Dân chủ gian trá và bệnh hoạn nhưng vẫn có
dân chủ.
Một cách tinh vi, phe cộng sản, hay chính quyền miền
Bắc, tượng trưng cho thế lực bảo thủ từ chối đổi mới, bảo vệ những giá
trị cũ.
Nhìn một cách khách quan và sáng suốt thì chọn lựa của
phe quốc gia là đúng, nhưng chuyển hóa về một xã hội dân chủ phương Tây
từ một xã hội theo truyền thống quân chủ Khổng giáo từ hai ngàn năm là
một thay đổi vô cùng to lớn, đòi hỏi một bước nhảy vọt tư tưởng để tiến
tới một văn hóa dân chủ mà những người lãnh đạo phe quốc gia hoàn toàn
không có khả năng. Xét cho cùng đó chỉ là hậu quả của tình trạng dân trí
kém, tình trạng mà Phan Chu Trinh gọi một cách bực bội là ''dân trí
thấp hèn''. Trong suốt năm thế kỷ, từ Nguyễn Trãi, chúng ta không có nổi
một nhà tư tưởng lớn. Bốn thế kỷ chiến tranh và tang tóc liên tiếp cũng
đã làm cho Việt Nam kiệt quệ cả về thể xác lẫn tinh thần khiến cho lý
luận triết học và chính trị của ta hầu như không có. Một dân tộc không
có lãnh đạo tư tưởng dĩ nhiên là không có định hướng và làm mồi ngon cho
đủ thứ mặc cảm và sai lầm.
Thể chế gắn liền với văn hóa, mà văn
hóa phương Tây thì lại khác hẳn với văn hóa cố hữu của ta. Không những
khác mà còn đối chọi. Văn hóa và nếp sống phương Tây đem đến những đảo
lộn vô cùng lớn trong xã hội và trong lòng người, dĩ nhiên nó phải gặp
những phản kháng bảo thủ rất mạnh. Đã thế, văn hóa phương Tây còn được
du nhập vào nước ta trong điều kiện cực kỳ tồi tệ : chúng ta bị đô hộ.
Chính vì cuộc đô hộ này mà quần chúng Việt Nam trước hết nhìn phương Tây
như kẻ thù. Cuộc đô hộ của người Pháp một mặt tập quen chúng ta với một
số giá trị phương Tây, một mặt cũng tạo ra một tâm lý chống đối phương
Tây. Công việc của phe quốc gia lại càng khó. Phe quốc gia cần một cuộc
vận động tư tưởng lớn để thuyết phục dân chúng tham gia vào một dự án
xây dựng dân chủ. Họ cần những người lãnh đạo thật dân chủ và có khả
năng thuyết phục, nhưng những người cầm đầu phe quốc gia hoàn toàn không
phải là những người đó. Các thủ tướng của Bảo Đại đều là viên chức của
thời Pháp. Ông Ngô Đình Diệm là một cựu thượng thư Nam Triều, cuộc
''cách mạng'' 1-11-1963 đưa lên một quốc trưởng lính Pháp cũ và một thủ
tướng cựu đốc phủ sứ. Ngay cả cái máy chém thời Pháp thuộc đã nhuộm máu
biết bao anh hùng dân tộc cũng được lưu dụng rất lâu. Guồng máy chính
quyền của họ vẫn chỉ là sự tiếp nối của guồng máy thực dân. Cho tới ngày
30-4-1975 vẫn còn một số lớn những cấp lãnh đạo của Việt Nam Cộng Hòa
xuất phát từ guồng máy thuộc địa. Nhiều tướng lãnh quân đội Việt Nam
Cộng Hòa, kể cả vị tướng bộ trưởng quốc phòng, xuất phát từ lính Pháp
trước đây. Chọn lựa của miền Nam đúng nhưng là một chọn lựa đầy thách
đố, trên thực tế nó lại là một chọn lựa không suy nghĩ, không chủ ý, do
đó thiếu hẳn sức thuyết phục.
Nhờ hỗ trợ của phương Tây, phe quốc
gia đã kéo dài được hơn một phần tư thế kỷ. Thời gian này đã chứng kiến
sự trưởng thành của một lớp người mới, có tinh thần dân tộc và có ý
thức dân chủ thực sự, nhưng những người này chưa kịp nắm thế chủ động
thì chính quyền quốc gia sụp đổ. Những năm cuối cùng của chế độ Việt Nam
Cộng Hòa chứng kiến một tình trạng ngược đời. Những người dân chủ khá
đông nhưng lại không có vai trò chủ động. Trong guồng máy chính quyền,
các cấp trưởng phòng, chánh sự vụ, giám đốc, v.v... thì mẫn cán và tiến
bộ trong khi các tổng giám đốc, bộ trưởng, thủ tướng, tổng thống nói
chung lại rất tồi. Trong quân đội, các đại úy, thiếu tá thì giỏi trong
khi các tướng lãnh thì bê bối. Phe quốc gia theo đuổi một định hướng đòi
hỏi một đoạn tuyệt lớn nhưng lại không làm một cuộc cách mạng cần
thiết.
Phe cộng sản về bản chất là một lực lượng thủ cựu. Trước
sự sụp đổ của ý thức hệ Khổng giáo, họ đề nghị chủ nghĩa cộng sản, một
chủ nghĩa chỉ đòi hỏi những thay đổi tâm lý nhỏ ở một xã hội Nho giáo.
Xét cho cùng, chủ nghĩa cộng sản chỉ là một thứ Khổng giáo tân trang. Nó
cũng phủ nhận tự do cá nhân, cũng giáo điều, độc đoán, độc tôn, xơ cứng
như Khổng giáo. Nó cũng phân chia giai cấp, bài bác thương mại, cũng o
bế nông dân. Chỉ cần lấy Marx đặt vào địa vị Khổng Tử, lấy Tư Bản Luận
thay vào chỗ Tứ Thư, Ngũ Kinh, lấy Trung ương đảng đặt vào chỗ triều
đình, lấy đám đảng viên thay cho lớp sĩ phu là đâu vào đó. Tâm lý cộng
sản và tâm lý Khổng giáo là một, do đó nó không đòi hỏi ở xã hội Khổng
giáo một thay đổi tâm lý nhức nhối nào cả. Không phải là một sự tình cờ
mà chủ nghĩa cộng sản xuất phát từ phương Tây nhưng lại thành công ở
Châu Á và ba trong bốn nước cộng sản còn lại là những quốc gia Khổng
giáo trước đây.
Phe cộng sản đề cao những giá trị của xã hội cũ.
Trước đây thì ''chí làm trai dặm nghìn da ngựa'', nay thì ''đường ra
trận mùa này đẹp lắm'' (bài hát Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây). Giá
trị chiến tranh này trí thức miền Nam không chấp nhận nữa, họ phản chiến
và kêu gọi hòa bình. Những hình ảnh mà phe cộng sản đưa ra cũng chỉ là
những hình ảnh cũ. Ông Hồ Chí Minh xuất hiện như một nhà nho khổ hạnh,
một người cha già dân tộc, các lãnh tụ của phe cộng sản ăn mặc xuềnh
xoàng như hình ảnh của những ông quan thanh liêm cần kiệm thời xưa. Họ
phơi bày trước thế giới sự mộc mạc của một nước nghèo chống ngoại xâm :
những bàn chông tre, những đôi dép lốp, những chiếc nón tai bèo. Thơ văn
tuyên truyền của họ chuyên chở những hình ảnh mộc mạc. ''Bàn tay ta làm
nên tất cả, với sức người sỏi đá cũng thành cơm'', v.v... Chỉ có bàn
tay thôi chứ không có máy cày, cơ giới. Chỉ có cơm thôi chứ không có
tivi, tủ lạnh, v.v... Những người ủng hộ họ cũng chỉ đề cao những hình
ảnh ấy. ''Dân ta về cày bừa đủ áo cơm no''. Vẫn cái cày, cái bừa. Họ gọi
nhau bằng bác, bằng cháu, bằng anh nuôi, chị nuôi quân đội đúng như
truyền thống của một chế độ gia tộc truyền thống. Tất cả đều chỉ là
những ngôn ngữ và hình ảnh của một nền văn hóa nông nghiệp sơ sài.
Chính
vì thế mà họ có một dáng dấp quen thuộc và quần chúng Việt Nam ngay cả
có ghét cũng thấy gần gũi với họ hơn là với các cấp chỉ huy của phe quốc
gia mặc âu phục, ngồi bàn giấy, đi xe hơi, nói chuyện sắc luật, nghị
định pha tiếng Anh, tiếng Pháp. Đó là lý do khiến cho họ ở trong dân như
cá trong nước.
Về cơ bản, cộng sản là một lực lượng cải tổ, tiếp
nối truyền thống của xã hội quân chủ Nho giáo, chống lại cuộc cách mạng
dân chủ mà phe quốc gia đại diện một cách vụng về. Điều ngược đời là nó
lại được mọi người, kể cả những người quốc gia, nhìn như một lực lượng
cách mạng trong khi phe quốc gia chỉ được nhìn như một lực lượng cải tổ.
Tại sao như vậy ? Lý do là vì chính quyền quốc gia tiếp nối guồng máy
cai trị của người Pháp và chỉ cải tổ dần dần guồng máy này, trong khi
phe cộng sản muốn đánh đổ guồng máy này và vì thế xuất hiện như một lực
lượng cách mạng. Như vậy nếu lấy chính quyền thuộc địa Pháp làm điểm qui
chiếu thì phe quốc gia chỉ cải tổ trong khi phe cộng sản làm cách mạng,
nhưng nếu lấy xã hội và văn hóa Việt Nam làm điểm qui chiếu, nghĩa là
nếu có cái nhìn đúng, thì cộng sản chỉ là một lực lượng cải tổ mà thôi
trong khi thể chế dân chủ của phe quốc gia mới thực sự là một đoạn tuyệt
có tính cách mạng. Người cộng sản đã chịu đựng vô vàn hy sinh để giành
thắng lợi. Hy sinh tạo ra một ảo tưởng vĩ đại. Nhưng thực ra lý tưởng mà
họ theo đuổi chỉ rất tầm thường, nó chỉ là sự tiếp nối của một văn hóa
chính trị đã lỗi thời và cần phải vứt bỏ.
Chọn lựa dân chủ là
đúng. Không những đúng mà còn bắt buộc. Đảng cộng sản đã làm gì kể từ
ngày chiến thắng 30-4-1975 ? Họ đã áp dụng chế độ cộng sản, đã làm cho
đất nước tụt hậu thê thảm và phải thay đổi. Chính sách đổi mới của họ
trong mười năm qua là gì nếu không phải là sự giã từ lúng túng và miễn
cưỡng một đường lối mà họ đã làm hao tổn hàng triệu sinh mệnh Việt Nam
để áp đặt ? Cuối cùng họ đã chỉ làm đất nước mất đi vài chục năm, sau
khi đã phải chịu đựng những đổ vỡ kinh khủng.
Tóm lại, cuộc chiến vừa
rồi chính là cuộc chiến giữa khuynh hướng canh tân theo các giá trị tự
do dân chủ và khuynh hướng thủ cựu dựa trên và tiếp nối các giá trị của
xã hội cũ. Lực lượng thủ cựu đã thắng vì tư tưởng chính trị của quần
chúng Việt Nam chưa tiến hóa đủ để tiếp nhận các giá trị tiến bộ trong
khi những người cầm đầu phe canh tân cũng không đủ tư cách, kiến thức và
bản lãnh chính trị để phất cao ngọn cờ dân chủ.
Có nên trách
những người lãnh đạo kế tiếp nhau của phe quốc gia không, hay nên bùi
ngùi vì sự thiếu hụt tư tưởng chính trị của Việt Nam, trước hết là của
trí thức Việt Nam ? Một sự kiện bi đát là, ở cả hai phía, trong suốt ba
mươi năm xung đột, từ 1945 đến 1975, chúng ta đã không có nổi một bản
nghị luận chính trị có giá trị và cũng không có nổi một chính trị gia
dân chủ đúng nghĩa. Trong bối cảnh dân trí đó, sự thắng lợi của lực
lượng bảo thủ chống dân chủ chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Dù đó là điều
rất đáng ân hận. Cây dân chủ đã chỉ được trồng một cách cẩu thả trên một
mảnh đất chưa chuẩn bị.
Phe cộng sản lúc đó cũng đã được hậu thuẫn của một phản ứng bảo thủ trên khắp thế giới.
Thập
niên 1960 chứng kiến một khúc quanh quan trọng của nền văn minh thế
giới. Các nước dân chủ tư bản đã hoàn toàn phục hồi sau thế chiến II và
phát triển mạnh mẽ, kỷ nguyên kỹ nghệ bắt đầu nhường bước cho kỷ nguyên
hậu kỹ nghệ. Kỹ nghệ tự động và tin học đi vào ùứng dụng thay đổi hẳn
cách làm việc và giao dịch, con người đi vào không gian và chinh phục
mặt trăng, các công ty đa quốc gia xuất hiện và bành trướng, truyền
thông và du lịch nhảy vọt, nền văn minh Coca Cola và Fast Food lan tràn,
trong hoạt động kinh tế dịch vụ trở thành quan trọng hơn sản xuất. L)ần
đầu tiên trong lịch sử loài người, các phát minh khoa học kỹ thuật
không làm tăng mà còn làm giảm số công nhân. Các tiến bộ vật chất, khoa
học, kỹ thuật và tổ chức đã đi nhanh hơn các chuẩn bị về tư tưởng. Tất
cả những thay đổi trọng đại đó đảo lộn mọi quan hệ trong xã hội, đảo lộn
các trật tự, tập quán, cách suy nghĩ và nếp sống cũ, chất vấn các giá
trị cũ, làm lung lay cả những ý niệm từ trước vẫn được coi là bất di bất
dịch. Tất cả những đảo lộn đó đặt ra những vấn nạn chưa kịp trả lời về
sinh hoạtxã hội, về chỗ đứng của con người trong xã hội, về chỗ đứng của
các quốc gia trên thế giới, và cả về môi trường, cho nên đã gây hoang
mang, lo sợ và tạo ra một phản ứng chống đối mãnh liệt. Trong suốt thập
niên 1960 và đầu thập niên 1970 bùng lên một phong trào toàn cầu coi
hiện đại hóa và phát triển kinh tế như những tai họa cần phải chận đứng.
Chủ nghĩa tư bản bị coi là một mối nguy, một con quái vật không linh
hồn, đầu tư nước ngoài như một công cụ xâm lược, các công ty đa quốc gia
như cơ cấu của một đế quốc mới, đế quốc Mỹ. Chủ nghĩa xã hội được coi
là một giải pháp nhân bản cứu vãn thế giới khỏi cuộc chuyển hóa khủng
khiếp này, Marx được tôn lên hàng một tiên tri.
Trong các trường
đại học Châu Âu chỉ có những người mác-xít được coi là trí thức chân
chính. Nhiều người ủng hộ phe cộng sản tại Việt Nam chỉ vì chống Mỹ.
Đảng cộng sản Việt Nam được coi như lương tâm của thế giới chống lại con
quái vật Hoa Kỳ.
Song song với phản ứng bảo thủ ngăn chặn một chuyển
hóa gây lo sợ vì chưa được thấu hiểu này là sự hốt hoảng về một nguy cơ
thế chiến hạt nhân có khả năng hủy diệt cả trái đất. Thập niên 1960
cũng là thập niên chạy đua võ trang dữ dội giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Quyết
tâm của Liên Xô rõ ràng là không lay chuyển được, các phong trào phản
chiến chỉ còn cách làm áp lực đòi Hoa Kỳ phải nhượng bộ. Khẩu hiệu thời
thượng của thập niên này là ''chẳng thà đỏ còn hơn chết''. Và dĩ nhiên
trọng tâm của cuộc vận động hòa bình này hướng về Việt Nam, nơi cuộc
chạm trán Hoa Kỳ - Liên Xô có thể nổ bùng thành một chiến tranh nguyên
tử.
Áp lực tổng hợp của hai trào lưu chống hiện đại hóa và chống nguy
cơ chiến tranh này mạnh đến nỗi ngay cả các trí thức bình tĩnh nhất
cũng muốn Hoa Kỳ nhượng bộ và rút khỏi Việt Nam. Chính giới Hoa Kỳ không
phải là không thấy sự chính đáng của cuộc can thiệp vào Việt Nam nhưng
cũng nghĩ tầm quan trọng của nó không đủ để khiến Hoa Kỳ phải chịu đựng
những chống đối quá lớn, nhất là khi các mục tiêu chiến lược chính đã
đạt được rồi. Nixon, chính trị gia diều hâu bậc nhất của Hoa Kỳ, đắc cử
tổng thống năm 1968 với lời cam kết sẽ chấm dứt chiến tranh.
Một
bối cảnh quốc tế và quốc nội bất lợi như vậy đòi hỏi ở Việt Nam Cộng
Hòa, nếu muốn sống còn, một sức mạnh tinh thần rất lớn. Nhưng sức mạnh
này phe quốc gia không có. Mà cũng khó có được bởi vì tư tưởng chính trị
của Việt Nam quá kém. Ơ? đây cần phải minh định : không có vấn đề một
dân tộc chưa đủ trình độ để có dân chủ, dân chủ và tự do có thể thực
hiện được và đem lại phúc lợi trong mọi trường hợp, nhưng khi dân trí
kém thì các thế lực độc tài chuyên chính có đất dụng võ tốt và dễ giành
được thắng lợi. Đó là tình trạng đáng buồn của chúng ta.
Cho tới
nay nhiều người vẫn còn tự hỏi nếu không có vụ Watergate buộc Nixon phải
từ chức, nếu, nếu, v.v... Nhưng làm sao tránh được những biến cố đó.
Trong một cuộc xung đột kéo dài tất nhiên phải có những biến cố thuận
lợi và những biến cố bất lợi. Phe quốc gia cũng đã có những biến cố rất
thuận lợi : cuộc xung đột giữa Liên Xô và Trung Cộng, biến cố mùa xuân
1968 tại Tiệp Khắc, Trung Quốc kết thân với Hoa Kỳ và trở mặt với Hà
Nội, hai cuộc tổng tấn công tự sát của Hà Nội mùa xuân 1968 và mùa hè
1972, v.v... Phe quốc gia đã được nhiều yếu tố có thể lợi dụng nhưng vì
bản lãnh chính trị quá yếu nên đã không lợi dụng được.
Ngày 30-4-1975
đã kết thúc một cuộc chiến mà chủ yếu là xung đột canh tân trong đó lực
lượng bảo thủ và phản dân chủ đã thắng vì văn hóa và trí tuệ Việt Nam
chưa được khai thông. Trách ai, nếu không phải là trí thức Việt Nam ?
Chúng ta có khá nhiều khoa bảng nhưng thiếu trí thức. Chúng ta có nhiều
kiến thức chuyên môn nhưng tư tưởng chính trị thì chúng ta lại không có.
Nhiều dân tộc dân trí không hơn chúng ta nhưng đã tiến tới dân chủ dẽ
dàng hơn chúng ta vì họ may mắn không có một lực lượng thủ cựu tinh vi
và quả quyết như đảng cộng sản Việt Nam, và họ không có một vĩ nhân như
Hồ Chí Minh.
Lúc đang học tập cải tạo, có một lần tôi được phép
đọc một số báo đảng. Tôi đọc bài tường thuật cuộc thăm viếng Pháp của
ông Phạm văn Đồng, lúc đó là chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng. Bài báo tường
thuật cuộc tiếp đón linh đình của trí thưc Việt kiều tại Pháp dành cho
ông Đồng. Kết thúc buổi gặp mặt, các đại biểu Việt kiều đã cùng chủ tịch
Phạm Văn Đồng hát vang bài ''Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng''.
Trong thời gian du học tại Pháp, tôi đ^ã biết các đại biểu này. Họ đều
là những trí thức lỗi lạc theo tiêu chuẩn Việt Nam. Tôi biết họ yêu nước
và họ đã theo cộng sản vì lòng yêu nước và cũng vì chạy theo thời
trang. Cũng trong sấp báo đó, tôi được đọc một bài của một cựu thẩm phán
có tên tuổi tại miền Nam, nổi tiếng là tiến bộ và do đó không bị đi cải
tạo, hân hoan ca tụng đại hội lần thứ tư của đảng, với lời kết luận :
''Chúng ta hãnh diện vì báo cáo chính trị của đồng chí Lê Duẩn''. Trí
thức Việt Nam nhảy múa reo mừng trước vực thẳm và tung hô những ân nhân
dẫn họ và dân tộc vào đêm đen. Sự kém cỏi về ý thức chính trị đã không
cho phép trí thức Việt Nam bay bổng và nhìn cao. Họ chỉ nhìn các chính
quyền quốc gia như là một bè lũ tay sai ngoại bang mà không nhìn thấy
phúc lợi của dân chủ mà các chế độ quốc gia đề nghị. Ngược lại họ cũng
không nhìn thấy rằng cộng sản chỉ là một bộ mặt mới của một khuôn mẫu
chính trị đã cũ kỹ cả ngàn năm.
Ngày 30-4-1975 đã là ngày khởi
đầu của một tiến trình suy thoái bi đát cho đất nước về mọi mặt, văn
hóa, đạo đức, kinh tế và môi trường. Nhưng như một câu nói của người
Pháp trong tai họa cũng có cái may (à quelque chose malheur est bon), từ
đó nước ta cũng đã có một số chuyển biến tích cực.
Chiến tranh
đã chấm dứt. Hòa bình tồi tệ vẫn còn hơn chiến tranh, nhất là khi, dầu
sao, kẻ chiến thắng cũng là người Việt Nam. Vả lại, không có cuộc chiến
tranh nào là đúng, là tốt cả.
Đất nước đã thống nhất, đó cũng
điều rất quan trọng bởi vì trong hơn bốn thế kỷ trước năm 1975, chúng ta
chưa có nổi một trăm năm thống nhất. Điều đáng buồn là chúng ta vẫn có
thể thống nhất mà không phải trả giá nặng đến như thế.
Các tôn
giáo đã được đưa ra khỏi chính trị. Đây cũng là điều rất đáng mừng, phân
biệt tôn giáo và chính trị là điều kiện cơ bản của dân chủ và tiến bộ.
Điều đáng tiếc là lần này chính trị lại nhảy vào và dẫm đạp lên tôn
giáo, nhưng điều này một chính quyền dân chủ tương lai có thể chấm dứt
tức khắc và dễ dàng.
Các khó khăn của cuộc sống sau 1975 đã phá
vỡ một số tâm lý lỗi thời, chủ yếu là óc khinh thường kinh doanh, óc
trọng văn khinh nghề. Từ đó, hình như gia đình Việt Nam nào cũng buôn
bán một cái gì, không thiếu những người có trình độ trung học, đại học
đạp xích lô, may quần áo, bán tạp hóa. Buôn bán là bước đầu cần thiết
cho kinh tế thị trường và phồn vinh, chúng ta đã bắt đầu cuộc chuyển hóa
từ một tâm lý làm công ăn lương sang một tâm lý kinh doanh.
Chúng
ta đã than phiền về tình trạng đạo đức suy đồi của những năm gần đây.
Đó là điều có thực nhưng theo tôi không đáng sợ lắm, một chính quyền dân
chủ pháp trị đứng đắn sẽ đem lại được trật tự trong lòng người và trong
xã hội, sinh hoạt kinh tế thị trường th_ực sự và luật chơi thực sự của
buôn bán sẽbắt buộc con người phải nhã nhặn và lương thiện. Điều quan
trọng là tâm lý con người đã thay đổi và nhiều giá trị lỗi thời đã bị
đào thải. Phát triển, kể cả phát triến kinh tế, chủ yếu là một vấn đề
tâm lý và văn hóa.
Đảng cộng sản và chế độ cộng sản đã là tai họa
lớn nhất về sinh mạng, văn hóa, kinh tế và môi sinh mà Việt Nam đã phải
chịu đựng trong suốt dòng lịch sử, nhưng chính kinh nghiệm của nó đã
khiến dân tộc Việt Nam đạt tới một tin tưởng chắc chắn và thầm kín vào
tự do và dân chủ.
Tất cả những yếu tố tích cực đó phải chăng là
do công của đảng cộng sản ? Khi tôi vừa mới ở tù ra, mẹ tôi ngạc nhiên
thấy tôi trở thành dễ tính, giường nào ngủ cũng được, một bát nước luộc
rau muống cũng đủ để ăn ngon lành ba bốn bát cơm, bà cười nói : ''Thằng
này đi cải tạo về tiến bộ quá''. Nhưng chắc chắn bà không nghĩ việc tôi
đi tù là có lợi và cũng không cảm ơn những người đã bỏ tù con bà.
Nhưng
có một sự kiện vô cùng trọng đại mà phải nói rằng nếu không có ngày
30-4-1975 chắc chắn chúng ta sẽ không có, đó là sự hình thành của cộng
đồng người Việt hải ngoại. Chúng ta là một dân tộc rất đông đảo, 80
triệu người trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, trên mặt đất cứ 1.000 người thì
có 14 người Việt Nam. Nhưng trước ngày 30-4-1975, chúng ta không có một
cộng đồng hải ngoại. Đó là một thiệt thòi lớn. Gần ba triệu người Việt
hải ngoại có sức mạnh kinh tế tương đương với 80 triệu người trong nước.
Người Việt hải ngoại đã thử nghiệm mọi nếp sống và mọi chế độ, đã len
lỏi được vào mọi bộ môn kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Cộng đồng người
Việt hải ngoại là những đầu cầu khoa học, kỹ thuật vô giá, và cũng là
một nguồn tiếp liệu lớn cho đất nước. Nhưng vai trò quan trọng nhất của
nó là con mắt của Việt Nam để quan sát và học hỏi thế giới. Một dân tộc
không có cộng đồng hải ngoại chẳng khác gì một người mù. Có thể nói sở
dĩ chúng ta chập choạng và lầm đường cho tới ngày nay, với biết bao thảm
kịch cũng vì chúng ta thiếu một cộng đồng hải ngoại. Một quan hệ bình
thường và mật thiết giữa cộng đồng người Việt hải ngoại và đất nước sẽ
là một bảo đảm rằng Việt Nam sẽ vĩnh viễn không bao giờ còn lạc vào ngõ
cụt của thủ cựu và cố chấp.
Lần này là một trong những lần cuối
cùng mà chúng ta đón nhận ngày 30-4 như nó vẫn thường đến, với thái độ
huênh hoang đắc thắng của một số người và với sự tủi hờn của một số
người khác. Như một trái cây đã chín và phải rụng vì trọng lượng của
chính nó, chế độ độc tài đảng trị sắp cáo chung. Chúng ta đã mong mỏi sự
cáo chung này và chúng ta đã liên tiếp thất vọng, chúng ta nhiều lần dự
đoán sự cáo chung này và vẫn luôn luôn sai lầm, nhưng nó sắp đến và có
nhiều khả năng là nó sẽ đến vào lúc chúng ta vẫn chưa sẵn sàng.
Một
khi chế độ cộng sản đã cáo chung, sự huênh hoang đắc thắng sẽ không còn
nữa và sự tủi hờn cũng không còn nữa. Cả hai ý nghĩa hiện nay của ngày
30-4 - ngày chiến thắng và ngày quốc hận - đều sẽ tiêu tan, nhưng chúng
ta sẽ sai lầm lớn nếu không còn coi ngày 30-4 như một ngày lễ lớn.
Ngày
30-4 nên được giữ lại như một ngày để cả nước tưởng niệm và suy nghĩ,
tưởng niệm mọi nạn nhân của cuộc chiến tranh này và suy nghĩ về đất
nước.
Tôi mường tượng đó sẽ là ngày nghỉ, với mọi tiếng động đột
nhiên lắng xuống, rồi một buổi lễ được cử hành tại Côn Đảo, nơi một
tượng đài được dựng lên tưởng niệm những người đã bỏ mình trên đường
vượt biển. Chúng ta sẽ thắp hương và đặt hoa trên mộ các tử sĩ và nạn
nhân của mọi bên. Đó sẽ là ngày Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc. Chúng ta sẽ
cùng nhau tâm niệm ý nghĩa thực sự của ngày 30-4-1975 : đất nước đã
chọn đi vào ngõ cụt vì kém cỏi trong tư tưởng và nhận thức. Đối với trí
thức Việt Nam, đó cũng là ngày của tự xét và ăn năn.
Nguyễn Gia Kiểng
(Thông Luận 115, tháng 5-1998)
Những bài khác trong Một Ngày Lễ Lớn Của Mai Sau - Tuyển tập Nguyễn Gia Kiểng
Vượt lên trên ngày 30 tháng 4 (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận số 5, tháng 5-1988)
Đóng góp vào một chiến lược cho đối lập (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận số 27, tháng 5-1990)
Để đóng góp cho thắng lợi của dân chủ (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận số 38, tháng 5 - 1991)
Một cách nhìn cuộc chiến (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận số 82, tháng 5-1995)
Vài suy nghĩ về cộng đồng người Việt hải ngoại - (TL 104) (Nguyễn Gia Kiểng) (Thông Luận 104, tháng 5-1997)
Vết thương ngày 30 tháng 4 (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận số 126, tháng 5-1999)
Một suy nghĩ về ngày 30 tháng 4 (TL 115) (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận 115, tháng 5-1998)
Hai mươi lăm năm sau ngày 30-4-1975: Đừng để lịch sử lặp lại (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận 137, tháng 5-2000)
Một cuộc chuyển hoá không thể được (TL 148) (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận, số 148, tháng 5-2001)
Nhân kỷ niệm ngày 30-4-1975: Vẫn một bài học (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận 159, tháng 5-2002)
Nhìn lại chiến thắng cộng sản ngày 30-4-1975 (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận, số 180, tháng 4-2004)
Cuộc chiến đấu thực sự (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận, ngày 17/05/2005)
Hãy xứng đáng với một tương lai khác ! (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận 203)
Một bài học từ biến cố 30-4-1975 (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận, ngày 14/05/2008)
Nhìn lại một thử nghiệm thất bại (Nguyễn Gia Kiểng) - (Thông Luận số 181, tháng 5-2004)