Nhìn Lại Đất Nước Trong Một Giai Đoạn Quan Trọng (Kỷ Nguyên) – Kỳ 1
Năm 2024 vừa qua đi, kết thúc một giai đoạn 5 năm (2020 – 2024) đầy biến động của thế giới với những biến cố lớn xảy ra dồn dập đã làm thay đổi về mọi mặt từ kinh tế, chính trị và xã hội ở mọi quốc gia. Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, mối liên thuộc giữa các quốc gia đã khiến các biến cố này trở thành vấn đề toàn cầu với những ảnh hưởng không những sâu rộng mà còn nhanh chóng hơn bao giờ hết. Những thử thách rất lớn đang đặt ra cho mỗi nước và thử thách có thể trở thành thảm họa đối với những nơi không có khả năng thích ứng và thay đổi.
Thế giới đang thay đổi nhanh chóng với những tiến bộ ngoạn mục về khoa học kỹ thuật, truyền thông mạng xã hội và đặc biệt là trí khôn nhân tạo (AI) đã thúc đẩy sự tiến lên về nhiều mặt ở những nước phát triển, tạo ra khoảng cách ngày càng lớn đối với các nước lạc hậu. Những mối nguy toàn cầu như biến đổi khí hậu, dịch bệnh v.v… cũng ngày càng nghiêm trọng và phức tạp hơn, đặt ra thách thức cho mỗi quốc gia. Đối với những nước nghèo, những thử thách này đặt người dân vào một hoàn cảnh chỉ biết chịu đựng và lệ thuộc vào sự tương trợ từ bên ngoài. Hoàn cảnh sẽ càng bi đát hơn đối với những nước lệ thuộc nặng nề vào bối cảnh thế giới như Việt Nam. Đáng lo hơn, tình hình trong nước còn trở nên nguy cấp với sự khủng hoảng của chế độ cộng sản, hiện đang ở vào giai đoạn sau cùng của tiến trình cáo chung. Nhìn lại mỗi chặng đường đã qua của đất nước luôn là một điều cần thiết, trong bối cảnh thế giới đang ở trong một khúc quanh lớn như hiện nay, điều này lại quan trọng hơn bao giờ hết.
PHẦN 1: THẾ GIỚI TRONG MỘT KHÚC QUANH LỊCH SỬ TRỌNG ĐẠI
Bài 1 : Đại dịch Covid-19, thảm họa dịch tễ thế kỷ
Hai năm 2020 và 2021 sẽ còn được nhắc đến rất lâu sau này, với khoảng thời gian đại dịch Covid-19 hoành hành, nhân loại đã phải trải qua nỗi ám ảnh kinh hoàng và khủng hoảng chưa bao giờ có về mọi mặt. Những con số thiệt hại cả về nhân mạng, kinh tế, xã hội cũng như tác động lâu dài lên sức khỏe cộng đồng đã như những gì chúng ta thấy, nhưng với diễn biến của đại dịch và cách mà chúng ta ứng phó đang đặt ra những điều đáng phải suy ngẫm.
Mặc dầu trước đó thế giới đã phải trải qua nhiều đợt dịch bệnh, gần nhất và cũng có tính chất tương đồng với Covid-19 là dịch SARS-2003, nhưng thế giới đã không có đủ sự chuẩn bị và phương tiện cần thiết để chuẩn bị cho những kịch bản như đại dịch Covid-19. Dịch SARS năm 2003 do chủng virus SARS-CoV cũng có đặc tính tương tự Covid-19 nhưng trong đại dịch lần này, với chủng SARS-CoV-2 có thể lây nhiễm ngay cả khi người bệnh không có triệu chứng đã là đặc tính quan trọng góp phần khiến đại dịch Covid-19 trở thành thảm họa truyền nhiễm lớn nhất trong lịch sử. Nhìn lại diễn biến của đại dịch vừa qua và những hậu quả của nó vẫn còn ảnh hưởng trong một thời gian dài, đang nhắc nhở chúng ta về một mối nguy sống còn và cũng đồng thời là nhu cầu về một bài học cần được rút ra để chuẩn bị cho tương lai. Điều mà nhân loại chưa thật sự nghiêm túc.

Hậu quả đã rất thảm khốc
Cho đến nay theo các số liệu chính thức thống kê được, đã có hơn 750 triệu người nhiễm và hơn 7 triệu người đã chết vì đại dịch Covid-19. Nhưng đó mới chỉ là những gì thống kê được, theo một ước tính mới đây của WHO thì phần lớn số ca tử vong trên thế giới đã không được ghi nhận và vì vậy, ngay cả với cách tính cẩn trọng nhất, thiệt hại về nhân mạng trên thực tế – cả nguyên nhận trực tiếp do virus và hệ lụy kéo theo – có thể lên đến 20 triệu người. Một con số lớn hơn ghi nhận rất nhiều.
Hậu quả của đại dịch đối với sức khỏe cộng đồng không chỉ dừng lại ở đó. Chính sách phong tỏa hạn chế đi lại khiến cuộc sống bị gò bó. Tồi tệ hơn là không ít người đã chứng kiến người thân phải lần lượt qua đời. Tất cả những điều đó đã làm trầm trọng và gia tăng trên diện rộng các chứng bệnh tâm thần, đặc biệt là chứng trầm cảm. Những di chứng không lường hết được sau khi nhiễm virus hoặc tiêm vaccine đã làm trầm trọng thêm các bệnh nền liên quan đến tim mạch, hệ thần kinh và các bệnh mãn tính khác.
Đại dịch khiến nền kinh tế thế giới thiệt hại nghiêm trọng và khó có thể tính được hết bởi ảnh hưởng sâu rộng của nó trong nhiều địa hạt. Các hoạt động phong tỏa kiểm dịch, hạn chế đi lại và giao thương đã gây nên cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu làm gián đoạn các hoạt động sản xuất, dẫn đến tình trạng thiếu hụt hàng hóa và gia tăng lạm phát. Theo các báo cáo được công bố, kinh tế thế giới đã suy giảm gần 3,5% trong năm 2020, mức suy thoái nặng nhất kể từ đại khủng hoảng năm 1930. Các báo cáo khác cũng chỉ ra là nền kinh tế thế giới đã thiệt hại ít nhất 10.300 tỷ đô la Mỹ trong 2 năm dịch nặng nhất là 2020 và 2021. Thiệt hại về kinh tế mà đại dịch gây ra cho đến nay là không thể thống kê hết được.
Trong những giờ phút khó khăn
Dịch bệnh bùng phát khi thế giới vừa kết thúc năm 2019 trong bối cảnh tình hình kinh tế tăng trưởng chậm lại và trở nên mong manh hơn trước những căng thẳng địa chính trị và chiến tranh thương mại do tổng thống Mỹ lúc đó là Donald Trump phát động. Những hình ảnh đầu tiên về dịch bệnh hoành hành ở thành phố Vũ Hán của Trung Quốc đã gây nhiều lo sợ cho thế giới nhưng giới chức nước này vẫn tìm cách giảm nhẹ tầm mức nghiêm trọng của thảm họa. Mãi đến khi chính quyền cộng sản Trung Quốc phải tiến hành họp khẩn Bộ chính trị ngay trong ngày mùng 1 tết (âm lịch) thì họ mới xác nhận tình hình dịch bệnh đã trở nên rất nghiêm trọng. Những ngày sau đó, đại dịch Covid-19 đã nhanh chóng được ghi nhận ở nhiều quốc gia, trước hết là những nước hợp tác với Trung Quốc qua dự án “Một vành đai và Một con đường” như nước Ý. Thế giới sẽ khó quên được những giây phút nghẹt thở khi dịch bệnh diễn ra ở Tây Ban Nha và miền bắc nước Ý khi hệ thống y tế sụp đổ vì đã hoàn toàn bất ngờ và không có đủ sự chuẩn bị. Dịch bệnh sau đó lây lan ra các nước ở châu Âu như Pháp, Đức, Anh, tiếp đó là Mỹ và toàn thế giới với tốc độ và quy mô chưa từng có trong lịch sử. Quãng thời gian vàng cần thiết để ngăn chặn dịch bệnh đã bị bỏ lỡ.
Trong giai đoạn đầu lây lan ra toàn cầu, tất cả các quốc gia mặc dầu đã thực hiện chính sách kiểm soát và phong tỏa nhưng các ca nhiễm đầu tiên sau khi truy vết đều cho thấy là dịch bệnh đã đến từ khá lâu trước đó ; các nỗ lực ứng phó ở mọi quốc gia đều luôn chậm hơn tốc độ lây lan của virus và đã luôn đi sau những đòi hỏi cần thiết để ngăn chặn. Thế giới còn chưa hết bàng hoàng với sự sụp đổ của hệ thống y tế ngay cả ở những nước tiên tiến như Mỹ và ở tây Âu thì sự biến đổi của các chủng virus SARS-CoV-2 như chủng Delta đã đưa đến thảm họa chết chóc cho nhiều nước, trong đó thảm khốc nhất là ở Ấn Độ. Đã có những giai đoạn, có đến 3 triệu ca nhiễm và gần 8000 người chết được ghi nhận chỉ trong một ngày. Thảm họa chưa bao giờ thấy đã khiến nhiều quốc gia trở nên hoảng loạn, đặc biệt là ở những nước chậm tiến, hệ thống y tế yếu kém đã hoàn toàn bất lực trước những đợt dịch bùng phát, hậu quả là đã phải trải qua những giờ phút tang tóc.
Sự hoảng loạn cũng đã đưa đến những hành động thiếu trách nhiệm. Vào giữa tháng 3 năm 2020, tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố sẽ bỏ 1 tỷ đô-la để mua quyền sở hữu vắc xin của công ty Curevac đang trong giai đoạn nghiên cứu đã gây ra những cuộc tranh cãi xấu hổ với chính phủ Đức. Bối cảnh thế giới lúc đó đang chứng kiến số ca nhiễm tăng mạnh với trung bình hơn 10 ngàn người nhiễm mỗi ngày, hệ thống y tế các nước trở nên quá tải mỗi khi dịch bùng phát. Vaccine là giải pháp quan trọng để đạt được trạng thái miễn dịch cộng đồng, nhu cầu vì vậy là rất lớn và cấp bách. Sau những nỗ lực lớn với sự phối hợp của các định chế quốc tế cùng chính phủ các nước giàu có, các hãng dược phẩm như Pfizer-BioNTech, Moderna, và AstraZeneca đã điều chế thành công vaccine vào cuối năm 2020. Đây là một thành tựu đặc biệt lớn với tốc độ kỷ lục và đáng kinh ngạc, nhưng trước tình thế nguy cấp đối với sự tồn vong của nhân loại, vaccine đã phải bỏ qua những tiêu chuẩn về thời gian thử nghiệm. Các chiến dịch tiêm chủng lập tức được triển khai mau chóng. Tuy vậy thì trước nhu cầu quá lớn trong khi nguồn cung rất hạn chế, những lô hàng vaccine quý giá đầu tiên đã dành cho người dân ở các nước giàu có ; tình trạng bất bình đẳng trong việc phân bổ vaccine giữa các quốc gia giàu và nghèo đã để lại một nốt trầm trong những ngày tháng hoạn nạn vừa qua của thế giới.
Lo ngại các hành động thô lỗ tương tự như Donald Trump, khi muốn dùng tiền để áp đảo các công ty dược phẩm nhằm đạt được các đơn hàng vaccine và tạo ra bất bình đẳng đối với các nước yếu thế, ngay trong tháng 3 năm 2020, các nhà lãnh đạo G20 đã kêu gọi một cơ cấu hỗ trợ đặc biệt để cho phép các đối tác chia sẻ nguồn lực và kiến thức. Lời kêu gọi ngay lập tức đã nhận được sự hưởng ứng của WHO, Ủy ban Châu Âu, Pháp và Quỹ Bill & Melinda Gates. Ngày 24 tháng 4 năm 2020, sáng kiến ACT Accelerator (ACT-A: Hội đồng điều phối chương trình hợp tác toàn cầu Tăng tốc tiếp cận các công cụ ứng phó với COVID-19) của nhóm G20 chính thức được công bố ; ACT-A là một sáng kiến hợp tác đa quốc gia gồm nhiều bên, trong đó cơ chế COVAX là một trong bốn trụ cột chính. COVAX (COVID-19 Vaccines Global Access: tiếp cận toàn cầu với vắc-xin COVID-19) là một cơ chế nhằm đảm bảo phân phối vacxin trên toàn cầu một cách công bằng. Cơ chế COVAX tận dụng vị thế, tiềm lực tài chính và uy tín của các tổ chức thành viên – như Liên minh vắc-xin (GAVI), Liên minh Đổi mới Sáng tạo Sẵn sàng Ứng phó Dịch bệnh (CEPI) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), cùng với đối tác cung ứng chính là UNICEF – để đàm phán các hợp đồng mua vaccine, qua đó, cung cấp đến các nước thu nhập thấp và trung bình.
Nỗ lực tiêm chủng thần tốc được thúc đẩy bởi tổ chức y tế thế giới (WHO) và cơ chế COVAX với quy mô lớn đã giúp nhiều nước có được miễn dịch cộng đồng tương đối, cùng với sự xuất hiện của biến chủng Omicron – tuy có tốc độ lây nhiễm cao hơn hẳn chủng Delta nhưng độc tính lại giảm đi đáng kể – đã góp phần đưa thế giới chuyển từ tình trạng đại dịch nguy cấp sang giai đoạn “sống chung với virus” vào năm 2022. Thật khó tưởng tượng đến hậu quả của đại dịch nếu biến chủng Omicron với tốc độ lây nhiễm cao như vậy nhưng độc tính không suy giảm hoặc thậm chí tăng lên.
Thế giới thức tỉnh trong một đồng thuận lớn
Đại dịch Covid-19 đã là vấn đề lớn nhất và khẩn cấp nhất của thế giới trong những năm qua. Sự phức tạp của yếu tố dịch tễ cũng như những tác động sâu rộng cả về kinh tế, sức khỏe cộng đồng và tổ chức xã hội đã đặt mỗi quốc gia trong những hoàn cảnh ứng phó khác nhau. Khoảng thời gian đại dịch hoành hành mạnh nhất, đã có vô số những cuộc tranh luận với vô vàn những ý kiến và đề xuất khác nhau để đánh giá tác động của dịch bệnh và qua đó, tiến tới những biện pháp ngăn chặn sự lây lan của đại dịch cũng như duy trì các sinh hoạt kinh tế. Hoạt động này đã đặc biệt sôi nổi ở các quốc gia giàu có, nơi các giải pháp ứng phó đa dạng có được từ nguồn phương tiện dồi dào. Điều ngược lại đã diễn ra ở những quốc gia nghèo và hạn chế về phương tiện, các kế hoạch chống dịch và trang thiết bị để ứng phó dịch bệnh phải phụ thuộc vào sự giúp đỡ từ bên ngoài.

Hậu quả từ đại dịch như Covid-19 trở nên tồi tệ hơn khi khởi phát từ những quốc gia độc tài được quản lý bởi những lãnh đạo thiếu hiểu biết và vô trách nhiệm như chính quyền cộng sản Trung Quốc; thay vì minh bạch thông tin để ứng phó thì họ đã che giấu cho đến khi không thể che giấu, khiến tình hình vượt ngoài tầm kiểm soát và làm thế giới bỏ lỡ thời gian vàng để khống chế dịch bệnh. Sai lầm này đã chỉ là một sai lầm được lặp lại khi nhìn về đợt dịch SARS trước đó vào năm 2003, một đợt dịch cũng khởi phát từ Trung Quốc và cũng đã bị chính quyền nước này che giấu đã gây ra tổn thất rất nặng nề về nhân mạng cho thế giới. Dịch SARS năm 2003 cùng đại dịch Covid-19 đã cho thế giới thấy rằng, các chế độ độc tài là một trở ngại đối với các nỗ lực kiểm soát các tai họa lớn.
Một may mắn lớn và là điểm sáng lớn nhất trong bức tranh đen tối của đại dịch Covid-19 chính là kết quả của sự hợp tác giữa những cơ chế phi chính phủ được dẫn dắt bởi các tổ chức khoa học. Mô hình hợp tác đa phương giữa các tổ chức quốc tế như Liên minh Đổi mới Sáng tạo Sẵn sàng cho Dịch bệnh (CEPI), Liên minh Vắc xin (GAVI) cùng với sự hợp tác và hỗ trợ giữa các chính phủ, tổ chức quốc tế (như WHO, UNICEF), doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ (NGOs), và các quỹ tư nhân lớn đã cho thấy vai trò quan trọng trước những thách thức sống còn. Sự tiến bộ của công nghệ cùng với những thành tựu và trí tuệ của các nhà khoa học đã thúc đẩy quá trình điều chế vaccine diễn ra một cách nhanh chóng. Nguồn lực tài chính từ các nhà tài trợ, khả năng hợp tác giữa các chính phủ và các tổ chức đã giúp các nhà dược phẩm có được những cơ chế tiếp cận với nguồn nguyên liệu quý giá để điều chế vaccine. Tất cả những cố gắng hợp tác trên cũng đã giúp tạo ra cơ chế điều phối vaccine trên quy mô lớn chưa từng có.
Sau những ngày tháng kinh hoàng của đại dịch Covid-19, mối lo về một đại dịch nguy hiểm hơn nhiều trong tương lai đã trở nên thường trực với thế giới. Đồng thời thế giới đã nhận thấy rằng, những thành tựu của khoa học trong lĩnh vực y tế, sự phát triển của công nghệ và trí tuệ của các chuyên gia dịch tễ, các nhà khoa học đã cứu nhân loại trong đại dịch lần này. Vai trò quyết định của các liên minh như CEPI và GAVI đang trở thành hình mẫu và là hy vọng của thế giới trong định hướng xây dựng một hệ thống ứng phó toàn cầu để đối phó với các đại dịch tiềm tàng trong tương lai, với những nguồn lực và quyền thực thi mạnh mẽ hơn. Hệ thống này sẽ được lãnh đạo bởi những tổ chức trực thuộc Liên Hợp Quốc như WHO và vận hành với một khung pháp lý để ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ đối với các quốc gia thành viên. Những nước dân chủ với một chính quyền có trách nhiệm sẽ khuyến khích và thúc đẩy sự hình thành của hệ thống này, không những vậy sẽ đóng góp một cách hào phóng để có được vai trò và tiếng nói quan trọng. Xu hướng này sẽ được thúc đẩy vì đặc tính của các nước dân chủ là sự tin cậy lẫn nhau được hình thành từ niềm tin vào các giá trị phổ quát. Thành công trong các hoạt động của cơ chế COVAX – dù phải thực hiện khẩn trương trong những điều kiện còn nhiều rào cản – vẫn tạo ra được hiệu quả lớn đã cho thấy là khi cơ chế này càng mạnh mẽ thì hiệu quả sẽ càng cao, trong khi không hề tạo ra một thách thức nào cho chính quyền các quốc gia tiếp cận. Có một điều đáng lo và cũng là điều hiển nhiên là các nước độc tài sẽ không tham gia hoặc tham gia nhưng giới hạn vì một hệ thống ứng phó như vậy sẽ đặt ra những thách thức cho quyền lực thống trị ở các chế độ độc tài đó.
Một điều cần được lưu ý là những hệ thống ứng phó hay những cơ chế tương trợ toàn cầu này khi đối diện với những thảm họa trong tương lai, dù với một nguồn lực và tinh thần liên đới lớn đến đâu thì cơ hội mà nó mang lại, trước hết sẽ được dành cho những nơi thuận lợi và xứng đáng. Những thành quả y học và những nhà khoa học có công lớn trong nỗ lực ngăn chặn đại dịch Covid-19 đã cho thấy tầm quan trọng của giáo dục và khoa học đối với mỗi quốc gia trước những thách thức lớn. Trong cuộc hành trình chạy đua về tương lai, vai trò và đóng góp của mỗi quốc gia cho những sứ mệnh chung sẽ quyết định tiếng nói và quyền lợi của quốc gia đó. Các quốc gia yếu kém về giáo dục và tụt hậu như Việt Nam nếu không vươn lên sẽ phải đối mặt với một tương lai đen tối. Vì vậy, dân chủ hóa đất nước là điều kiện bắt buộc để vươn lên và cũng đồng thời là nhu cầu sống còn đối với dân tộc Việt Nam.
Kỷ Nguyên
(03/02/2025)
(Còn tiếp)