‘Tứ sa’: Trung Quốc bóp méo lịch sử để đòi yêu sách Biển Đông (Hoàng Việt)
Bên cạnh hành vi đe dọa, bắt nạt các nước, TQ còn cố ngụy biện và tiếp
tục viện dẫn, giải thích một cách méo mó những sự kiện lịch sử liên quan
Biển Đông nhằm bảo vệ yêu sách “tứ sa”, vốn không hề phù hợp với Công
ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.
Chuyên gia Hoàng Việt (ĐH Luật TP.HCM) trong bài viết kỳ trước “Biển Đông: Soi “tứ sa” của Trung Quốc dưới lăng kính pháp lý” khẳng định yêu sách “tứ sa”, một cách giải thích mơ hồ của Trung Quốc (TQ) về đường lưỡi bò, vi phạm luật pháp quốc tế.
Bên cạnh hành vi đe dọa, bắt nạt các nước, TQ còn cố ngụy biện và tiếp
tục viện dẫn, giải thích một cách méo mó những sự kiện lịch sử liên quan
Biển Đông nhằm bảo vệ yêu sách “tứ sa”, vốn không hề phù hợp với Công
ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.
Không có chuyện Pháp công nhận Trung Quốc ở Biển Đông
. Phóng viên: Trong các
tuyên bố ngoại giao và tuyên truyền của mình để bảo vệ yêu sách ở Biển
Đông, trong đó có “tứ sa”, TQ thường viện dẫn các sự kiện lịch sử. Ví
dụ, phía TQ cho rằng việc Pháp ký Hiệp ước Pháp - Thanh năm 1887 đồng
nghĩa với việc Pháp đã từ bỏ yêu sách tại Trường Sa, Hoàng Sa và TQ là
bên kế thừa chứ không phải Việt Nam (VN). Ông nghĩ sao?
+ Chuyên gia Hoàng Việt: Vấn đề “tứ sa” hay đường lưỡi bò
đều thể hiện sự vi phạm của TQ đối với luật quốc tế dưới các góc độ
khác nhau. Viện dẫn Hiệp ước Trung - Pháp nói trên để nói Trường Sa,
Hoàng Sa thuộc về TQ là không có cơ sở. Đây là hiệp ước xác định biên
giới trên bộ giữa VN và TQ chứ không nhắc gì tới vấn đề biển. Sau này,
VN và TQ đã dựa trên tinh thần của hiệp ước này để phân giới cắm mốc cho
toàn bộ biên giới Việt - Trung trên đất liền. Bên cạnh đó, chuyện phân
định biên giới trên đất liền không liên quan đến việc công nhận hay từ
bỏ chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, vốn không nằm trong phạm vi
của hiệp ước. Tôi thấy việc suy diễn Hiệp ước Pháp - Thanh để bảo vệ “tứ
sa” là hết sức vụng về. Bởi lẽ nếu suy diễn theo kiểu chỉ có lợi cho
bản thân thì đó không phải tinh thần của luật pháp quốc tế; và các nước
khác cũng sẽ có quyền suy diễn các hiệp ước mà phía chịu thiệt sẽ là TQ.
. Phía TQ cũng tuyên truyền Pháp công
nhận TQ có chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa vào năm1921. Theo đó,
thủ tướng Pháp năm ấy lên tiếng rằng chính phủ TQ thiết lập chủ quyền ở
hai quần đảo này từ năm1909. Thực hư chuyện này thế nào?
+ Không có chuyện đó. Việc giải thích về
chủ quyền không đơn giản như vậy được. Trước hết, TQ phải chứng minh là
TQ đã có chủ quyền hay chưa, rồi mới bàn tới chuyện người khác công
nhận hay không. Trong thời kỳ thuộc địa, Pháp đã đại diện cho các hoạt
động đối ngoại của VN và không có chuyện Pháp thừa nhận chủ quyền của
TQ. Giai đoạn 1932-1933, Pháp đã chính thức yêu cầu TQ ra tòa án quốc tế
để giải quyết tranh chấp tại khu vực Hoàng Sa và Trường Sa nhưng phía
TQ đã từ chối. Điều này cho thấy sự yếu thế của TQ trước luật quốc tế
nên họ tìm cách suy diễn các tuyên bố từ Pháp.
Nhật Bản không chuyển các đảo cho Trung Quốc
. Ông nhận định thế nào về quan điểm
Nhật Bản sau Thế chiến thứ hai đã công nhận chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường
Sa là của TQ như nhiều học giả TQ tuyên bố?
+ Quan điểm này cũng hoàn toàn bịa đặt.
Theo Tuyên bố Cairo ngày 27-11-1943, Nhật Bản phải từ bỏ tất cả đảo ở
Thái Bình Dương mà nước này đã xâm lược hoặc chiếm đóng từ khi bắt đầu
cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914; tất cả lãnh thổ Nhật Bản đã
chiếm của TQ như Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại cho
TQ. Như vậy, Tuyên bố Cairo khẳng định ý chí của các cường quốc (trong
đó có Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) buộc Nhật Bản phải trao trả cho Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa các lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm của TQ gồm Mãn
Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ, không có câu chữ nào đề cập tới hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại Hội nghị Postdam ngày 26-7-1945, lãnh đạo
ba nước Mỹ, Anh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã ra tuyên bố khẳng định
“Các điều khoản của Tuyên bố Cairo sẽ được thi hành”. Sau khi tuyên
chiến với Nhật Bản ở Viễn Đông, Liên Xô cũng tham gia tuyên bố này.
Sau Thế chiến thứ hai, Hội nghị San
Francisco diễn ra từ ngày 4 đến 8-9-1951, với sự tham dự của đại diện 51
nước, để trao đổi nội dung của dự thảo hòa ước sẽ được ký với Nhật Bản.
Tại đây, có người đề xuất Nhật Bản công nhận chủ quyền hoàn toàn của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với nhiều vùng lãnh thổ, trong đó có
Trường Sa và Hoàng Sa. Tuy nhiên, đại đa số các đại biểu tham dự (46/51)
đã không đồng ý với đề xuất này, tức là TQ không được trao quyền gì với
hai quần đảo này.
Trái lại, phía VN khi đó tuyên bố từ lâu
Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận của lãnh thổ VN và VN tiếp tục khẳng
định chủ quyền của mình đối với các quần đảo ấy. Kết quả, không có bất
cứ một đại diện nào của 51 quốc gia tham dự hội nghị có ý kiến phản đối
hoặc bảo lưu đối với tuyên bố trên của đại diện VN. Tinh thần và sự thật
này tiếp tục được thể hiện trong nội dung của hòa ước ký với Nhật Bản
đã được Hội nghị San Francisco thông qua tại phiên họp ngày 8-9-1951.
. Khi đệ trình công hàm lên
Liên Hợp Quốc, Bắc Kinh viện dẫn lại công hàm của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng năm 1958 để chứng minh yêu sách “tứ sa” của TQ là hợp pháp. Các
chuyên gia trong nước và quốc tế cũng mổ xẻ sự kiện lịch sử này. Ông
đánh giá chung như thế nào về lập trường này của TQ?
+ Đúng là nhiều học giả, trong đó có PGS-TS Vũ Thanh Ca, cũng vừa có vệt bài trả lời phỏng vấn “Bẻ gãy luận điệu TQ ở Liên Hợp Quốc”. Bản thân tôi cũng đã trả lời Pháp Luật TP.HCM ở bài “Làm rõ 6 vấn đề về Công hàm Phạm Văn Đồng”.
Theo đó, tôi có thể khẳng định tuyên bố
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ là tuyên bố đơn phương, không thể hiện
sự công nhận của VN đối với tuyên bố chủ quyền của TQ về cái gọi là “tứ
sa”, trong đó bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Dù xét ở góc
độ nội dung, câu chữ trong công hàm hay soi xét công hàm dưới ánh sáng
luật pháp quốc tế thì đây vẫn là sự thật. Phía TQ và một số người cố
gắng trích dẫn điều luật, án lệ… để chứng minh VN đã công nhận Hoàng Sa,
Trường Sa nằm trong “tứ sa” của TQ nhưng điều đó xuất phát từ hai lý do
cơ bản và phổ biến: (i) Trích dẫn cắt cúp, không đầy đủ, không đúng
tinh thần của án lệ; (ii) Hiểu sai hoặc hiểu không đầy đủ về một số điều
luật quốc tế, dẫn đến suy diễn có lợi cho TQ.
Chứng cứ của Trung Quốc không có giá trị
. Phía TQ trưng ra nhiều ấn phẩm, từ
tạp chí đến bản đồ, atlas địa lý tại Pháp, Niên lịch sử thế giới xuất
bản tại Nhật, từ điển địa danh thế giới tại Mỹ, sách giáo khoa địa lý
phổ thông ở VN (1974)… để chứng minh chủ quyền tại “tứ sa”. Ông đánh giá
như thế nào về giá trị pháp lý của các ấn phẩm này?
+ Các tài liệu như vậy chỉ mang tính
chất tuyên truyền chứ không thể hiện tính pháp lý. Nếu muốn bám theo các
tài liệu hay ấn phẩm kiểu TQ thì phải khẳng định là chính trong tất cả
chính sử, các địa phương chí, các địa đồ cổ của TQ đều không mảy may
hiển hiện Hoàng Sa, Trường Sa. Điều đó có nghĩa TQ không hề thể hiện chủ
quyền của họ ở “tứ sa” như họ vẫn rêu rao.
Đã có vụ phanh phui cho thấy TQ cố tình
làm các ấn phẩm, vật phẩm, kể cả đồ cổ giả để lừa công luận về sự hiện
diện của họ ở Biển Đông. Giới quan sát rất hoài nghi về các bộ phim mà
TQ thực hiện về Biển Đông mà họ tuyên truyền ở TQ. Chính vì thế, không
ai tin TQ cả. Trong khi đó, có rất nhiều bản đồ của phương Tây thể hiện
một cách rõ ràng và khách quan (vì họ là bên thứ ba) rằng Hoàng Sa và
Trường Sa không thuộc chủ quyền của TQ, mà thuộc chủ quyền của VN.
. Xin cám ơn ông.
ASEAN nên ứng xử thế nào? Chính phủ Philippines thời Tổng thống Aquino III đã khởi kiện và thắng kiện ngoạn mục TQ với phán quyết năm 2016. Tuy nhiên, Tổng thống đương nhiệm Duterte lại có chính sách khác khi muốn lợi dụng chiến thắng này để có thể giành những lợi ích kinh tế từ TQ. Malaysia thì chọn chính sách “ngoại giao im lặng”. Dù Malaysia rất kiên quyết trong việc bảo vệ lợi ích biển của mình nhưng giữ im lặng, tránh việc chỉ trích công khai TQ. Indonesia với vị thế là quốc gia có tiềm lực mạnh nhất ASEAN cũng sẵn sàng đối đầu với TQ khi cần thiết nhưng cũng sẵn sàng chủ động hạ nhiệt căng thẳng trước Bắc Kinh. Với VN, chính phủ tiếp tục kiên quyết bảo vệ chủ quyền, trước sau như một, với chủ trương giải quyết bằng biện pháp hòa bình và dựa trên tinh thần luật pháp quốc tế. Dù vẫn xảy ra va chạm với TQ nhưng nhiều quốc gia lại thấy rằng chính sách của VN vẫn tỏ ra rất hiệu quả trong việc bảo vệ lợi ích của mình mà vẫn tránh rơi vào căng thẳng, xung đột và bị cô lập không cần thiết. Nói như vậy để thấy rằng mỗi quốc gia ASEAN trong tranh chấp đều có những chiến lược riêng. Tuy nhiên, các nước phải đoàn kết lại, phối hợp với nhau và với các quốc gia bên ngoài (Mỹ, Nhật Bản, Úc…) thì việc ngăn chặn âm mưu của TQ mới có thể thành công.
Chuyên gia luật biển quốc tế HOÀNG VIỆT, ĐH Luật TP.HCM
|