Sáng kiến "Vành đai, con đường" lần đầu tiên được xướng lên vào năm 2013 trong phát biểu của ông Tập Cận Bình ở Indonesia. Nhưng thực ra nó đã bắt đầu được thúc đẩy từ năm 2010, trong một nỗ lực thoát hiểm của Trung Quốc khỏi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vào năm 2008. Ông thủ tướng của Trung Quốc Ôn Gia Bảo trước đó đã nhận định công khai rằng nếu không thể duy trì một mức tăng trưởng GDP trên 8% thì Trung Quốc sẽ rơi vào cảnh bạo loạn, sau khi một khế ước bất thành văn giữa một bên là đảng CSTQ toàn trị và một bên là khối 900 triệu người dân nghèo khổ bị xé bỏ.
Kể từ đó, Trung Quốc ồ ạt đầu tư công, đặc biệt là lĩnh vực xây dựng để giải quyết ba điều trọng tâm sau: Giải quyết công ăn việc làm cho khối hơn 300 triệu công nhân và kỹ nghệ xây dựng dư thừa, xây dựng những trục đường nối liền nhau để huy động lực lượng an ninh trấn áp những cuộc nổi dậy khi cần thiết, và gây ảnh hưởng ra bên ngoài nhằm thoát khỏi thế vây bọc ở Thái Bình Dương. Kế hoạch khổng lồ này phần nào đã thành công về mặt địa chính trị nhưng nó lộ ra quá nhiều nhược điểm to lớn, rõ nét nhất là việc Trung Quốc đi vay nợ để cho các nước khác vay. Trong tuyệt đại đa số các dự án cho vay, chất lượng thi công và tính khả thi đã không được đặt ra, thay vào đó là sự sẵn sàng móc ngoặc với các chế độ độc tài tham nhũng (ngưu tầm ngưu, mã tầm mã), phung phí tài chính mà không có một cơ chế kiểm soát minh bạch. Hậu quả là người dân các nước phải thừa hưởng những công trình kém chất lượng, không thể khai thác dẫn đến thái độ bài Hoa càng dâng cao. Trung Quốc còn thiệt hại nặng hơn sau những phiêu lưu quá tốn kém, mà trong nhiều dự án cũng không thể đòi nợ.
Đại dịch Covid-19, trái với lo sợ của nhiều người rằng Trung Quốc sẽ trỗi dậy và thể hiện tham vọng bá quyền hung hăng hơn trong lúc các nước dân chủ đang vất vả chống dịch và những liên minh đang bị suy yếu, cần thời gian xét lại, thì là một đòn giáng nặng nề lên tình trạng hết sức bi đát của Trung Quốc. Thế giới vẫn cần cẩn trọng trước họ, nhưng phải đặt một ưu tư lớn hơn để quản lý sự sụp đổ của Trung Quốc trong một kịch bản hòa bình.
Đại dịch khiến hàng loạt quốc gia trong dự án Vành đai và Con đường do Trung Quốc khởi xướng khó trả khối nợ khổng lồ.
Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) từ lâu đã gây tranh cãi khi bị
chỉ trích khiến nhiều quốc gia ngập trong nợ nần. Đây là dự án đầy tham
vọng nhằm xây dựng mạng lưới đường sắt, đường bộ và đường thủy từ Trung
Quốc đến Trung Á, châu Phi và châu Âu. Dự án cũng nhằm thúc đẩy thương
mại toàn cầu. Vài năm qua, các tổ chức tín dụng Trung Quốc đã cung cấp
hàng trăm tỷ USD khoản vay cho những nước tham gia vào các dự án trong
BRI.
"Rất nhiều quốc gia tham gia sáng kiến BRI đã vay mạnh tay từ Trung
Quốc để đầu tư vào các dự án mới. Tuy nhiên, đại dịch đang làm gián đoạn
các hoạt động kinh tế và gây phức tạp các kế hoạch trả nợ", Kaho Yu -
nhà phân tích cấp cao khu vực châu Á tại Verisk Maplecroft cho biết trên
CNBC.
Một số dự án lớn, như tại Indonesia, Malaysia, Campuchia, Sri Lanka
và Pakistan, đã bị đình trệ do các lệnh phong tỏa, Simon Leung - luật sư
tại Baker McKenzie cho biết. Đại dịch cũng khiến người lao động và vật
tư khó tiếp cận các dự án.
Đường hầm thuộc dự án đường sắt cao tốc Jakarta - Bandung ở Indonesia hồi tháng 5/2019. Ảnh:Xinhua
"Doanh thu xuất khẩu giảm và chi tiêu công tăng lên vì đại dịch đã
khiến nội tệ mất giá, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ bằng ngoại tệ
của các nước cho ngân hàng Trung Quốc", Leung nói. Nhu cầu hàng hóa của
một quốc gia giảm cũng đồng nghĩa nhu cầu với tiền tệ của nước đó đi
xuống, khiến đồng tiền yếu đi.
Tất cả những việc này đang ảnh hưởng đến các quốc gia phải trả nợ
bằng đôla Mỹ cho các khoản vay từ Trung Quốc. Theo hãng nghiên cứu Green
Belt and Road Initiative Center, hơn 130 quốc gia đã tham gia Vành đai
và Con đường. Rất nhiều nước nằm ở châu Âu, châu Phi và Trung Á.
Yu cho biết nhiều nước thu nhập thấp đã đề nghị Trung Quốc giảm nợ.
Việc này có nhiều hình thức, từ miễn lãi, gia hạn kỳ thanh toán đến
ngừng trả nợ trong trung hạn. Pakistan và Sri Lanka có thể là những
nước thiệt hại lớn nhất và không thể trả nợ năm nay do đại dịch, giới
phân tích cho biết.
Nhiều quốc gia còn ký "thỏa thuận trao đổi" với Trung Quốc. Những nước này "còn ở tình thế khó khăn hơn", Yu cho biết.
Một số khoản vay của Trung Quốc được định giá bằng dầu thô. "Do đại
dịch khiến giá dầu lao dốc, các nước phải sản xuất nhiều dầu thô hơn để
trả nợ. Tuy nhiên, Covid-19 cũng khiến hoạt động công nghiệp đình trệ,
khiến việc sản xuất càng khó khăn. Hậu quả là, các công ty Trung Quốc có
thể sẽ phải tiếp quản các dự án liên doanh, hoặc nhận thanh toán bằng
tài sản", Yu nói.
Trước đây, Trung Quốc từng tiếp quản tài sản khi các nước không thể
trả nợ. Ví dụ điển hình là Sri Lanka. Nước này đã chuyển giao cho Bắc
Kinh một cảng chiến lược năm 2017, sau khi không thể trả nợ cho các công
ty Trung Quốc.
Hãng nghiên cứu EIU cho biết Trung Quốc "đang ngày càng chịu sức ép"
gia hạn khoản vay hoặc thậm chí xóa nợ. Họ cũng đã "phát tín hiệu sẵn
sàng" giảm nợ cho một số nước thu nhập thấp.
"Việc này đang làm tăng khả năng các ngân hàng Trung Quốc phải xóa nợ
quy mô lớn, theo các điều khoản bất khả kháng hoặc thỏa thuận khác",
EIU cho biết, "Xóa nợ diện rộng có thể tạo ra tâm lý tiêu cực, kìm hãm
hoạt động cho vay tại Trung Quốc nửa cuối năm nay và cả năm 2021".
Phần lớn việc cho vay được thực hiện qua 2 ngân hàng chính sách -
Ngân hàng Phát triển Trung Quốc và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc.
Cả hai đều có "quan hệ mật thiết" với chính phủ. "Các ngân hàng này được
chính phủ hỗ trợ. Vì thế, việc đàm phán lại vấn đề nợ nần sẽ có sự tham
gia của yếu tố chính trị", Leung cho biết.
"Xóa nợ là vấn đề đặc biệt, nhất là khi Trung Quốc có cổ phần chiến
lược tại nhiều dự án xuyên quốc gia và cũng có lợi ích kinh tế nếu
chương trình này thành công trong dài hạn", ông cho biết trên CNBC.
Trong khi đó, tại Trung Quốc, các nhà băng nước này cũng đã chuẩn bị
cho núi nợ xấu khi người tiêu dùng và các công ty đều chịu ảnh hưởng từ
đại dịch. Đầu năm nay, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) đã yêu cầu
các ngân hàng quốc doanh chấp nhận mức nợ xấu cao để hỗ trợ các công ty
bị Covid-19 tác động.