Sự sụp đổ của thị trường dầu mỏ thế giới (Daniel Yergin)
Trước khi đại dịch Covid-19 diễn ra, thì nguồn cung dầu mỏ đã trở nên dư thừa và giá dầu có xu hướng giảm dần vì thế giới đang dần chuyển qua điện nắng hay các nguồn năng lượng thân thiện với môi trường hơn. Kỷ nguyên nhiên liệu hóa thạch đang qua đi nhanh hơn, và đại dịch Covid19 càng làm tăng tốc tiến trình này trên nhiều phương diện. Các nước độc tài chỉ sống dựa vào dầu mỏ như Nga, Arab Saudi sẽ rất khốn đốn trong thời gian tới.
Đại
dịch Covid-19 và một cuộc chiến về giá đã đẩy các thị trường năng lượng
thế giới rơi vào khủng hoảng. Trong lịch sử, thị trường dầu mỏ toàn cầu
chưa bao giờ sụp đổ đột ngột như hiện nay.
Giá dầu đã giảm 2/3 kể từ đầu năm 2020 và sẽ còn tiếp tục lao dốc.
Nền
công nghiệp dầu khí, cung cấp hơn 60% năng lượng cho toàn thế giới, đã
chìm trong một cuộc khủng hoảng kép mà có lẽ chưa ai từng nghĩ có thể
xảy ra vào đầu năm nay. Một cuộc chiến giá cả, trong đó các quốc gia sản
xuất dầu mỏ tranh giành thị phần, đã dẫn đến việc thị trường này bị tổn
hại nặng nề khi vấp phải một cuộc khủng hoảng lớn hơn do dịch Covid-19
gây ra và sắp tới nhiều khả năng sẽ là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể
từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Điều đó sẽ dẫn tới nhu cầu của thị
trường giảm mạnh chưa từng thấy trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào kể từ
khi dầu mỏ trở thành mặt hàng toàn cầu. Giá dầu đã giảm 2/3 kể từ đầu
năm 2020 và sẽ còn tiếp tục lao dốc. Chỉ trong tháng 4, mức giảm tiêu
thụ của toàn cầu gấp 7 lần so với mức giảm sâu nhất tính theo quý sau
cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009. Ở những khu vực không còn khả năng
chứa dầu và mất thị trường, giá của một thùng dầu có thể giảm xuống mức
bằng 0.
Sự
sụp đổ này sẽ gây ra tình trạng bất ổn ở những nước xuất khẩu dầu và
góp phần dẫn đến sự hỗn loạn của các thị trường tài chính. Điều đó cũng
sẽ khiến môi trường địa chính trị vốn đã căng thẳng phức tạp thêm, kể cả
bằng cách lôi kéo nước Mỹ vào một cuộc tranh cãi quốc tế về các giải
pháp cần thực hiện để phục hồi đống đổ nát này. Tháng 2/2020, sản lượng
dầu của Mỹ đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay, với 13,2 triệu
thùng/ngày - cao hơn đáng kể so với sản lượng của các nước sản xuất dầu
mỏ hàng đầu khác trên thế giới là Saudi Arabia và Nga. Nhờ cuộc cách
mạng dầu khí đá phiến với sự hỗ trợ của các kỹ thuật khai thác mới, nước
Mỹ đã đạt được kỷ lục đó sau một thập kỷ đi lên từ một nước nhập khẩu
dầu lớn nhất trở thành một nước xuất khẩu dầu lớn thế giới.
Tổng
thống Mỹ Donald Trump cũng đã bước vào cuộc cạnh tranh gay gắt đó. Mặc
dù từ lâu ông Trump ủng hộ giá dầu ở mức thấp - và từng nhanh chóng đăng
dòng tweet phản đối Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và những
nỗ lực quản lý nguồn cung toàn cầu trong những năm gần đây - nhưng cú
sụp đổ lần này lại châm ngòi cho một thực tế trái ngược. Tổng thống Mỹ
gần đây đã có cuộc điện đàm với người đồng cấp Nga Vladimir Putin để
thảo luận về các giải pháp có thể có nhằm ngăn chặn cái mà sau đó ông
gọi là sự sụt giảm gây tổn hại. Sau đó, ông Trump đã điện đàm với Thái
tử Saudi Arabia Mohammed bin Salman, tuyên bố rằng các nước sản xuất dầu
mỏ lớn đang xem xét phối hợp cùng nhau cắt giảm đáng kể sản lượng.
Saudi Arabia đã triển khai những vấn đề được thống nhất trong cuộc điện
đàm trên bằng việc tái triệu tập một cuộc họp của OPEC cùng với các nước
chủ chốt trong lĩnh vực dầu mỏ, gồm Canada và Mexico. Tất cả những điều
này đã làm cho giá dầu tăng trở lại mặc dù những yếu tố "khi nào", "như
thế nào" và "do ai" của thỏa thuận tiềm năng trên vẫn còn chưa rõ ràng.
Và càng nhiều đối tượng tham gia thì việc triển khai một thỏa thuận sẽ
càng trở nên khó khăn hơn.
Bản
chất và phạm vi rộng lớn của sự sụp đổ và cuộc tranh giành địa chính
trị hiện nay do nó tạo ra là những thách thức hiếm thấy đối với nước Mỹ
và ngành năng lượng của nước này. Những thách thức này sẽ gây ra hậu quả
nghiêm trọng đối với nền kinh tế và chính sách đối ngoại của Mỹ trong
một thời khắc vốn đã tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ.
Hồi kết của một trật tự mới trong ngành dầu mỏ
Cũng
giống như rất nhiều ngành công nghiệp khác, tình trạng khó khăn trong
các thị trường dầu mỏ là do đại dịch Covid-19 gây ra. Nhưng riêng trường
hợp dầu mỏ, tình trạng khó khăn đó xuất hiện cùng với bước ngoặt về địa
chính trị.
Đợt
sụt giảm giá dầu gần đây nhất, bắt đầu từ năm 2014 do hậu quả của một
đợt dư thừa nguồn cung, cuối cùng cũng đã kết thúc vào năm 2016 với sự
xuất hiện của một trật tự dầu lửa quốc tế mới – Tổ chức các nước xuất
khẩu dầu mỏ mở rộng (OPEC+). Đây là một thỏa thuận giữa 11 thành viên
OPEC và 10 nước không thuộc OPEC nhằm thống nhất về việc cắt giảm sản
lượng để ổn định một thị trường đang trên đà sụt giảm. Đôi khi người ta
gọi đó là Liên minh Vienna bởi đây là địa danh ký kết thỏa thuận này,
OPEC+ được thiết lập dựa vào liên minh không chính thức giữa Saudi
Arabia và Nga sau khi 2 nước sản xuất dầu lớn nhất vào thời điểm đó đạt
được thỏa thuận hợp tác. Việc liên minh trên được thành lập cũng đã mở
đường cho một mối quan hệ chiến lược, đem lại cho Nga cơ hội xây dựng
quan hệ với một trong những đồng minh quan trọng nhất của Mỹ ở Trung
Đông và cũng để Nga thu hút đầu tư từ Saudi Arabia. Đối với Saudi
Arabia, đó là một con đường để mặc cả trong mối quan hệ với Mỹ và đạt
được lợi thế đòn bẩy nào đó trong cuộc giằng co với Iran.
Tuy
nhiên, giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng Covid-19, đợt bùng phát ở
Trung Quốc trong tháng 1 và tháng 2 vừa qua, đã làm lung lay mối liên
minh không chính thức trên. Trung Quốc, thị trường dầu mỏ tăng trưởng
nhanh nhất thế giới đột nhiên bị đóng cửa. Thay vì tăng trưởng như kỳ
vọng, nhu cầu dầu mỏ của thế giới đã lao dốc chưa từng thấy với mức giảm
6 triệu thùng/ngày trong quý I/2020.
Đầu
tháng 3 vừa qua, trong và xung quanh các hội nghị của OPEC và OPEC+ ở
Vienna, Saudi Arabia và Nga đã bắt đầu các cuộc thảo luận về cách ứng
phó. Nhưng các nước nhanh chóng nhận ra rằng họ có quan điểm rất khác
biệt. Ngân sách của Nga được tính toán dựa trên mức giá dầu tương đối
thấp, khoảng 42 USD/thùng. Trong khi đó, theo ước tính của Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF), Saudi Arabia cần một mức giá cao hơn, khoảng 80 USD/thùng
để cân đối ngân sách của mình. Theo đó, Saudi Arabia cần những đợt cắt
giảm sản lượng sâu hơn nhằm cố gắng thiết lập mức giá sàn ; trong khi đó
Nga tuy tỏ ra không chắc chắn nhưng giả định rằng tác động của Covid-19
nhiều khả năng sẽ lớn hơn rất nhiều và sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu trên
toàn thế giới, nên yêu cầu duy trì thỏa thuận đã có cho đến tháng 6 và
sau đó sẽ đàm phán tiếp.
Saudi Arabia khăng khăng muốn cắt giảm sản lượng, Nga thì một mực nói không. Và thế là liên minh OPEC+ rạn nứt.
Mở van
Phản
ứng tức thì của Saudi Arabia đối với tình trạng rạn nứt trong liên minh
là tuyên bố rằng do không đạt được thỏa thuận cắt giảm sản lượng với
tất cả các nước khai thác dầu mỏ khác, nên nước này sẽ hoạt động hết
công suất. Quốc gia này đã bắt đầu bơm dầu với công suất tối đa, hướng
tới mục tiêu tăng thêm 2,5 triệu thùng vào sản lượng 9,7 triệu thùng mà
nước này đang khai thác mỗi ngày. Sản lượng tăng thêm là để bù đắp khoản
thâm hụt doanh thu do giá dầu giảm. Nga phản ứng lại bằng việc tuyên bố
rằng nước này cũng sẽ khai thác hết công suất, nhưng năng lực để tăng
sản lượng của nước này thấp hơn nhiều, với gần 300.000 thùng/ngày. Cuộc
chiến giành thị phần đã bắt đầu như vậy.
Tuy
nhiên, trong khi giá cả đang lao dốc không phanh, sự bùng phát dịch
Covid-19 đang chuyển sang giai đoạn hai, với sức tàn phá lớn hơn - giai
đoạn đại dịch toàn cầu. Việc đóng cửa gần như toàn bộ nền kinh tế thế
giới đã gây ra sự sụp đổ về nhu cầu ở phạm vi toàn cầu chưa từng thấy
trong lịch sử. Vào tháng 4, mức sụt giảm có thể lên đến 20 triệu
thùng/ngày hoặc nhiều hơn, tương đương với khoảng 20% tổng cầu của thế
giới.
Ngay
cả khi nhu cầu giảm mạnh, dầu vẫn được hút ra khỏi giếng ; nếu không
được chuyển đến khách hàng thì phải được đưa đi nơi khác, điều đó có
nghĩa là lượng dầu dư thừa sẽ được đưa vào kho dự trữ, chủ yếu là bể
chứa ở khắp thế giới. Dựa trên thông số theo từng quốc gia, IHS Markit
tính toán rằng kho chứa dầu thế giới sẽ được đổ đầy vào cuối tháng 4
hoặc đầu tháng 5. Khi điều này xảy ra, sẽ có hai hậu quả : giá dầu sẽ
tụt dốc và nhà sản xuất sẽ đóng cửa các giếng dầu bởi họ không thể vứt
bỏ số dầu đã khai thác.
Do
tính chất của các mỏ dầu ở mỗi nước nên Nga và Saudi Arabia có khả năng
sản xuất dầu với chi phí rẻ hơn rất nhiều so với các nước khác trên thế
giới. Ở những nước có chi phí khai thác dầu đắt hơn, khi giá mỗi thùng
dầu bán được thấp hơn chi phí vận hành các giếng dầu, thì một công ty
không thể tiếp tục khai thác mà không chịu lỗ trên mỗi thùng dầu. Vào
thời điểm đó, công ty sẽ tạm thời đóng cửa giếng dầu. Trong số đó, dầu
đá phiến của Mỹ sẽ chịu thiệt hại nặng nề nhất.
Kết
quả là nhiều khả năng Mỹ sẽ phải từ bỏ thị phần trên thị trường toàn
cầu vào tay nước khác. Theo Igor Sechin, CEO của Rosneft (tập đoàn sản
xuất 40% sản lượng dầu ở Nga) và là người phản đối thỏa thuận OPEC+ năm
2016 : "Nếu bạn từ bỏ thị phần, thì bạn sẽ không bao giờ lấy lại được".
(Đối với một số người ở Moskva, đây là điều đáng mừng, vì họ coi sự phát
triển của ngành khai thác dầu đá phiến của Mỹ đồng nghĩa với việc trao
cho nước này quyền tự do áp đặt các lệnh trừng phạt đối với lĩnh vực
năng lượng của Nga, như những lệnh trừng phạt được đưa ra vào tháng
12/2019 đã khiến việc xây dựng đường ống dẫn dầu Dòng chảy phương Bắc 2
từ Nga sang Đức tạm ngừng ngay trước khi nó được hoàn thành).
Các
doanh nghiệp sản xuất dầu đá phiến của Mỹ đang phải chịu áp lực. Những
công ty này đã cắt giảm ngân sách, đồng thời giảm hoặc dừng cả việc
khoan dầu. (Với dầu đá phiến, các nhà sản xuất phải khoan những giếng
dầu mới để duy trì sản lượng). Theo ước tính của IHS Markit, sản lượng
của Mỹ có thể giảm gần 3 triệu thùng/ngày vào cuối năm nay. Nếu điều đó
xảy ra, Mỹ sẽ vẫn là một nước khai thác dầu lớn, nhưng vẫn còn kém xa
Nga và Saudi Arabia và lượng nhập khẩu sẽ tăng. Theo phân tích của IHS
Markit, xét đến tầm quan trọng của cuộc cách mạng dầu đá phiến đối với
nền kinh tế Mỹ, thiệt hại về kinh tế đối với nước này sẽ ở mức cao, tổng
thiệt hại có thể lên đến 2,5 triệu việc làm.
Một thị trường bị quá tải
Liệu
có cách nào để ổn định thị trường toàn cầu hay không ? Việc kết thúc
cuộc chiến thị phần sẽ làm giảm thặng dư nguồn cung chảy vào thị trường,
giảm bớt một phần áp lực nào đó và có tác động tích cực đối với tâm lý
thị trường. Đó là một trong những yếu tố để định giá. Điều này sẽ chỉ
giải quyết một phần của vấn đề dư thừa nguồn cung, nhưng là một phần có
vai trò quan trọng.
Điều
quan trọng là cách thức đạt được sự cân bằng đó. Saudi Arabia có một
nền tảng đặc biệt để thúc đẩy một giải pháp giải như thế, bởi nước này
là chủ tịch của G20 trong năm nay, một diễn đàn của các nền kinh tế lớn
trên thế giới nhằm giải quyết và tìm ra phương sách giải quyết các vấn
đề kinh tế quốc tế. Trong cuộc khủng hoảng 2008-2009, G20 có chức năng
như một ban giám đốc điều hành nền kinh tế thế giới. Nhưng đó là một kỷ
nguyên mang tính hợp tác nhiều hơn.
Mỹ
có những hạn chế nhất định trong khả năng hành động. Hiện nay, các
thành viên quốc hội nước này, những người thường ủng hộ các thỏa thuận
vũ khí với Riyadh, muốn gắn toàn bộ mối quan hệ Mỹ-Saudi Arabia với
chính sách dầu lửa quốc tế : 13 Thượng nghị sỹ đảng Cộng hoà của các
bang sản xuất dầu đã viết thư cho Thái tử Saudi Arabia Mohammed bin
Salman bày tỏ sự bất bình đối với cái mà họ gọi là chính sách của Saudi
Arabia nhằm "giảm giá dầu thô và tăng năng suất khai thác" ; 6 nghị sỹ
trong số đó, bao gồm chủ tịch Ủy ban quân lực Thượng viện, sau đó đã đưa
ra một lá thư thẳng thắn hơn, cho rằng quan hệ quốc phòng Mỹ-Saudi
Arabia sẽ khó có thể duy trì nếu trình trạng hỗn loạn và khó khăn trên
chủ ý nhắm vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Mỹ. Ngoại trưởng Mỹ Mike
Pompeo trực tiếp nhắc đến cơ hội duy nhất để Saudi Arabia "xoa dịu các
thị trường năng lượng và tài chính toàn cầu".
Trong
nội bộ nước Mỹ, chính phủ chỉ có một bộ công cụ hạn chế. Không giống
với Riyadh và Moskva, Washington không thể áp đặt hạn mức sản xuất đối
với các công ty khai thác dầu. Nước này cũng không thể lựa chọn đưa gần
700.000 thùng dầu mỗi ngày vào kho dự trữ xăng dầu chiến lược, đồng thời
Mỹ sẽ cần quốc hội phê chuẩn để cấp ngân sách cho việc đó. Gói kích
thích kinh tế trị giá 2.000 tỷ USD được đưa ra mới đây không bao gồm
khoản ngân sách 3 tỷ USD cần chi cho việc này. (Nhiều khả năng, 3 tỷ USD
đó sẽ là một khoản đầu tư rất tốt cho chính phủ, có khả năng nhân đôi
giá trị khi giá dầu phục hồi trong vài năm tới).
Thẩm
quyền điều tiết sản lượng dầu thuộc về các bang, đáng chú ý nhất là Ủy
ban Đường sắt Texas, mặc dù có tên như vậy nhưng cơ quan này lại kiểm
soát sản lượng dầu của bang - chiếm 40% tổng sản lượng của nước Mỹ. Ủy
ban này có thẩm quyền cắt giảm sản lượng khai thác từ các giếng dầu căn
cứ vào lý do phòng chống lãng phí, nhưng lần gần đây nhất cơ quan này sử
dụng thẩm quyền đó là cách đây nửa thế kỷ. Hiện nay, bất kỳ một nỗ lực
nào cho cái gọi là "phân bổ sản lượng theo tỷ lệ" có thể sẽ được một số
doanh nghiệp ủng hộ trong khi những doanh nghiệp khác lại phản đối. Bên
ngoài nước Mỹ, điều đó sẽ được hiểu là một tín hiệu rằng các nước khác
cũng nên thực hiện việc cắt giảm sản lượng.
Trong
bối cảnh phần lớn nền kinh tế toàn cầu đang gặp khó khăn, cuộc khủng
hoảng dầu mỏ sẽ trở nên tồi tệ hơn trong những tuần tới, đồng thời,
người ta sẽ cảm nhận được thiệt hại không chỉ trong ngành công nghiệp
này. Khi giá giảm và các kho dự trữ đầy lên, hoạt động sản xuất trên thế
giới sẽ sụt giảm nghiêm trọng. Một phần có lẽ là hậu quả của dịch
Covid-19 và tình trạng gián đoạn hoạt động sản xuất ở các khu vực khác
nhau trên thế giới. Một phần là do quyết định của các nước, bất chấp
việc chúng ta đang sống trong một nền chính trị thế giới đầy hỗn loạn.
Tuy nhiên, phần lớn sự sụt giảm là do một thị trường chịu tổn thất nặng
nề do dịch Covid-19 và tình trạng đóng cửa của nền kinh tế thế giới.
Daniel Yergin
Nguyên tác : A Pandemic and a Price War Have Together Brought Energy Markets to a Crisis, Foreign Affairs, 02/04/2020
Minh Anh giới thiệu
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 16/04/2020
Daniel Yergin là phó chủ tịch của IHS Markit. Bài viết được đăng trên tạp chí Foreign Affairs