Dịch cúm Vũ Hán, cơ hội để thế giới cô lập Trung Quốc (Việt Hoàng)
Một Trung Quốc
lớn mạnh nhưng vẫn từ chối các giá trị về dân chủ và nhân quyền đã trở thành mối
đe dọa chung cho tất cả các nước dân chủ chứ không riêng gì Mỹ. Kìm hãm, bao
vây và cô lập Trung Quốc là hành động tự vệ bắt buộc của các nước dân chủ. Nước
Nga của Putin cũng bị cấm vận và cô lập sau khi dùng vũ lực sát nhập bán đảo
Krime của Ukraine vào lãnh thổ Nga. (Việt Hoàng)
Virus corona
đang hoàng hành tại Trung Quốc hơn hai tháng qua vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại.
Số người chết đã lên đến hơn 2.000 người với gần 75.000 ca nhiễm. Việc phong
tỏa Vũ Hán và các thành phố khác tại Trung Quốc gây nên nhiều cảnh hỗn loạn
chưa từng thấy.
Người dân Trung
Quốc hoang mang và phẫn nộ trước nhiều cái chết thương tâm như cái chết của bác
sĩ Lý Văn Lượng. Ông là một trong tám bác sĩ cảnh báo sớm về virus COVID-19 ngay
từ cuối tháng 12/2019. Vài ngày sau đó ông bị công an mời lên đồn và bắt phải
ký vào bản nhận tội “tuyên truyền sai sự thật, gây hoang mang cho người dân”. Cái
chết của bác sĩ Lý Văn Lượng đã khiến quần chúng tức giận, trong đó có nhiều
người là trí thức và nghệ sĩ nổi tiếng Trung Quốc.
Không chỉ bác
sĩ Lý Văn Lượng qua đời vì nhiễm bệnh mà ngay cả bác sĩ, giám đốc bệnh viện Vũ
Hán cũng vừa qua đời do virus COVID-19. Đạo diễn Thường Khải ở Vũ Hán cũng đã tử
vong cùng cả gia đình gồm bố mẹ và chị gái khi tự cách ly tại nhà. Theo báo chí
thì có hơn 3.000 nhân viên y tế tại Vũ Hán đã bị lây nhiễm virus corona trong
khi điều trị cho các bệnh nhân. Gần 800 triệu người Trung Quốc nằm trong khu vực
giới hạn đi lại trong đó có Bắc Kinh và Thượng Hải. Hiện đã có hơn 80 quốc gia
trên thế giới cấm hoặc hạn chế người Trung Quốc nhập cảnh.
Do dịch cúm
Vũ Hán vẫn tiếp diễn nên chưa có con số thống kê về thiệt hại của Trung Quốc do
virus corona gây ra tuy nhiên ngay từ bây giờ chúng ta cũng có thể hình dung được
sự tổn thất to lớn cho nền kinh tế của Trung Quốc, đại công xưởng của thế giới.
Nhiều nhà máy phải đóng cửa trong đó có các nhà máy ô tô. Foxconn, nhà máy sản
xuất của Apple, cũng tạm dừng sản xuất. Không chỉ tại Trung Quốc mà nhiều công
ty ở bên ngoài cũng bị ảnh hưởng do thiếu nguồn nguyên vật liệu được sản xuất tại
Trung Quốc.
Nhân đây, tôi
muốn đề cập một chút đến phong trào toàn cầu hóa, đó là việc các công ty lớn tại
các nước phát triển di dời các nhà máy hãng xưởng sang các nước đang phát triển
nhằm giảm chi phí sản xuất. Đây là trào lưu không thể đảo ngược vì nó hoàn toàn
hợp lý. Trung Quốc được chọn làm công xưởng của thế giới vì có một tài nguyên
khổng lồ, đó là dân số với hơn 1,4 tỉ người. Nếu Trung Quốc là một nước dân chủ
thì không có gì để nói, họ sẽ phát triển và thăng tiến trong bền vững. Tuy
nhiên Trung Quốc là một nước độc tài, càng hùng mạnh thì họ càng trở thành mối
lo ngại cho hòa bình thế giới khi lãnh đạo Trung Quốc ngày càng công khai bày tỏ
tham vọng bá chủ thế giới, ví dụ việc gia tăng chi tiêu ngày càng lớn cho quân
sự.
Một Trung Quốc
lớn mạnh nhưng vẫn từ chối các giá trị về dân chủ và nhân quyền đã trở thành mối
đe dọa chung cho tất cả các nước dân chủ chứ không riêng gì Mỹ. Kìm hãm, bao
vây và cô lập Trung Quốc là hành động tự vệ bắt buộc của các nước dân chủ. Nước
Nga của Putin cũng bị cấm vận và cô lập sau khi dùng vũ lực sát nhập bán đảo
Krime của Ukraine vào lãnh thổ Nga. TPP (Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương)
ra đời là nhằm mục đích bao vây và cô lập Trung Quốc. Đáng tiếc là hiệp ước đó
đã bị Donald Trump xé bỏ. Cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung do Trump phát động chỉ
gây ồn ào và mang tính mị dân chứ không có hiệu quả là bao.
Như chúng ta
đều biết thâm thủng thương mại của Mỹ với Trung Quốc vào khoảng 300-350 tỉ USD
mỗi năm và Trump cho rằng đây là sự “bất công” đối với Mỹ vì thế ông ta đã châm
ngòi cho cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung nhằm cân bằng thâm thủng thương mại giữa
hai nước. Sự thật không giản dị như vậy. Trong năm 2018 (một năm sau cuộc chiến
thương mại), thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc lập kỷ lục với 419,2 tỷ
USD, cao nhất trong 10 năm, kể từ năm 2008. Xuất khẩu hàng hóa Mỹ sang Trung Quốc
giảm 9,6 tỷ USD, trong khi nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc vào Mỹ tăng 34 tỷ
USD. Sau 18 tháng, cuối cùng Trump cũng phải ký “hòa ước” đình chiến chiến
tranh thương mại với Trung Quốc.
Tại sao như
vậy? Trước chiến tranh thương mại, mỗi năm Trung Quốc mua của Mỹ khoảng 200 tỉ
USD các loại hàng hóa thì 100% các loại hàng hóa đó là của Mỹ. Trong khi đó
hàng hóa Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ, thì có đến hơn 50% là hàng hóa của các công
ty Mỹ sản xuất tại Trung Quốc. Apple là một ví dụ. Một chiếc điện thoại iPhone
sản xuất ở Trung Quốc với giá khoảng 240 USD, trong đó Trung Quốc chỉ nhận được
8,46 USD, số còn lại chia đều cho các công ty Mỹ, Nhật, Hàn, Đài Loan. Mỗi cái
điện thoại, Apple đút túi gần 300 USD. 50% hàng hóa còn lại là những mặt hàng
gia dụng và tiêu dùng thiết yếu mà người Mỹ bắt buộc phải mua. Kết quả là dù
Trump có đánh thuế bao nhiêu trên hàng hóa Trung Quốc nhập khẩu thì thâm thủng
mậu dịch cũng không vì thế mà giảm đi. Hơn nữa tiền thuế đó là dân Mỹ trả chứ Trung
Quốc không có trả. Dân Mỹ là con nhà giàu nên nhu cầu chi tiêu lớn, họ bỏ tiền
ra để nhận được những thứ mình cần, điều đó hoàn toàn hợp lý, thuận mua vừa
bán.
Quá trình
toàn cầu hóa là không thể thay đổi. Không có công ty nào tại Mỹ có thể làm ra
được một cái áo sơ mi hay một đôi giày với giá 10 USD, đơn giản vì tiền lương
của người Mỹ quá cao. Không chỉ Mỹ và các nước phát triển mới làm như vậy mà
ngay cả các nước như Hàn Quốc, thậm chí là Thái Lan cũng đã không làm gia công
may mặc từ nhiều năm qua. Các công việc đó sẽ chuyển sang Trung Quốc hoặc các
nước đang phát triển như Việt Nam, Bangladesh, Pakistan, Myanmar… Trung Quốc không
“ăn cắp” công ăn việc làm của người Mỹ. Mỹ và các nước phát triển sản xuất các
mặt hàng có giá trị cao và tinh vi còn các mặt hàng rẻ tiền và cần nhiều sức
lao động sẽ chuyển sang cho các nước kém phát triển.
Cái giá mà Trung
Quốc phải trả cho việc làm ra hàng hóa giá rẻ để xuất đi khắp thế giới là vô
cùng lớn. Dễ thấy nhất là sự hủy hoại môi trường. Trung Quốc đã cố gắng tăng
trưởng kinh tế một cách hoang dại bất chấp hậu quả. Chủ nghĩa thực tiễn của Mỹ
và các nước dân chủ cũng đã lợi dụng và tiếp tay cho sự phát triển hoang dại
đó. Giờ đây thế giới đã nhận ra là không thể tiếp tục như vậy. Dịch cúm Vũ Hán
có thể là cơ hội để các nước dân chủ cô lập Trung Quốc một cách mạnh mẽ hơn.
Việc các nhà máy rút khỏi Trung Quốc đã, đang và sẽ tiếp tục gia tăng trong
thời gian tới. Hơn nữa việc phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc cũng nguy hiểm cho
chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu mỗi khi có sự cố tại quốc gia này.
Việt Nam sẽ ra sao trong hoàn cảnh mới này?
Có thể nói là
Việt Nam đang đứng trước một cơ hội “có một không hai” để phát triển và vươn
lên. Nhiều nhà máy sẽ chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam và các nước khác trong
khu vực. Một đồng thuận gần như là 100% của các nước dân chủ là kéo Việt Nam ra
khỏi quĩ đạo Trung Quốc, giúp Việt Nam mạnh lên để làm đối trọng với Trung Quốc.
Việc Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) vừa được nghị viện Châu Âu
thông qua (hôm 12/2/2020) bất chấp phản đối của nhiều tổ chức xã hội dân sự và
nhân quyền quốc tế là một minh chứng.
Đảng cộng sản
Việt Nam cũng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc “bỏ Tàu theo Mỹ” dù thâm
tâm không hề muốn. Kinh tế của Việt Nam phụ thuộc quá lớn vào ngoại thương, chủ
yếu là Mỹ và các nước dân chủ. Như vậy quá trình “xoay trục” là không thể đảo
ngược. Trung Quốc sẽ sớm rơi vào khủng hoảng và chúng ta sẽ thấy rõ điều đó
trong năm 2020. Dịch cúm Vũ Hán cũng đã bộc lộ nhiều lúng lúng và bất cập của
một chính quyền thiếu vắng tự do và dân chủ. Trong một hệ thống chính trị độc
đoán, thiếu minh bạch với sự kiểm duyệt gắt gao càng làm cho tình hình hỗn
loạn, lòng dân hoang mang. Nếu chính phủ Trung Quốc không bưng bít ngay từ đầu,
khi dịch cúm mới xảy ra thì có thể hậu quả đã không nghiêm trọng như bây giờ.
Chúng ta có
thể thấy là cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung không gây thiệt hại nhiều cho Trung
Quốc mà chính con virus corona bé nhỏ mới thực sự làm cho đế quốc khổng lồ của
tập Cận Bình chao đảo. Đây là một cơ hội trời cho để Mỹ và các nước dân chủ cô
lập Trung Quốc. Không phải tự nhiên mà Trung Quốc tố cáo Mỹ là “gieo rắc sự
hoang mang và sợ hãi” cho dư luận thế giới bằng việc rút các cơ quan ngoại giao
Mỹ tại Vũ Hán về nước và sau đó đem máy bay đến Trung Quốc để di tản toàn bộ
công dân của Mỹ tại đây. Các nước khác lập tức theo chân Mỹ, trong đó có cả Việt
Nam.
Đứng trước cơ
hội này, Việt Nam muốn hay không cũng phải thay đổi. Nếu Việt Nam vẫn tiếp tục
là một bản sao của Trung Quốc thì không có lý do gì để các tập đoàn đa quốc gia
chuyển các nhà máy sang Việt Nam. Họ có rất nhiều sự lựa chọn khác trong khu
vực. Như vậy, dù muốn hay không thì chính quyền Việt Nam cũng phải cải cách và
thay đổi. Các áp lực từ các tổ chức xã hội dân sự và nhân quyền quốc tế sẽ gia
tăng ngày càng mạnh lên đảng cộng sản Việt Nam. Cơ hội dân chủ hóa đất nước
ngày càng đến gần. Những người thật sự quan tâm đến tương lai và vận mệnh đất
nước cần tìm đến và kết hợp lại với nhau thành một lực lượng dân chủ hùng mạnh
để trở thành một giải pháp cho đất nước.
Việt Hoàng (20/02/2020)