Tại sao Trung Quốc chọn gây chiến với Việt Nam? (David Hutt)
Chính vì không có viễn kiến gì nên bây giờ ĐCSVN mới bị rơi vào tình trạng 'tiến thoái lưỡng nan' như vậy. Người cần chơi thì không chơi, người cần tránh thì không tránh. Chưa bao giờ ĐCSVN biết đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của đảng. Việc quyết định 'xoay trục' sang Mỹ hiện nay có vẻ là sáng suốt nhưng họ vẫn không chịu dân chủ hóa đất nước vì thế quan hệ Việt-Mỹ khó mà đạt được tầm cao cần có. Chính quyền Mỹ không phải là cơ chế có quyền quyết định mọi chuyện, Mỹ còn một xã hội dân sự năng động và nền báo chí tự do. Các cơ chế này sẽ 'tấn công' ĐCSVN chứ không 'dễ dãi' như chính quyền Mỹ. TQ trong lúc 'mất trí' có thể tấn công các đảo VN và VN chỉ còn mỗi cách im lặng chịu trận chứ họ đâu có thể làm được gì.
Các nhà phân tích cho rằng, Trung Quốc chọn VN để khơi chiến trước khi đụng độ lớn hơn với Hoa Kỳ ở Biển Đông
Nếu
những căng thẳng âm ỉ bùng nổ trở thành cuộc xung đột toàn
diện ở Biển Đông, những phát súng đầu tiên bắn ra có vẻ sẽ
là giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Vì
tranh chấp lãnh hải, cả hai đối thủ đã cố thủ suốt nhiều
tuần lễ liền ở Bãi Tư chính, một khu vực biển giàu năng lượng,
mà không bên nào chịu lùi bước. Trong khi Trung Quốc phản đối
mọi hoạt động khai thác các nguồn năng lượng trong vùng biển
tranh chấp của đối thủ, cuộc đối đầu của họ hiện nay với
Việt Nam nhằm phục vụ chiến lược nước đôi.
Derek
Grossman, chiến lược gia quốc phòng cao cấp của tập đoàn RAND,
một nhóm chuyên gia tư vấn chính sách có trụ sở tại Washington,
đã lập luận rằng nếu Trung Quốc tiến hành cuộc tấn công quân
sự ở Biển Đông, rất có thể họ sẽ chọn Việt Nam để giao
chiến.
Vào
đầu năm nay, trước khi có sự bất đồng tại Bãi Tư Chính, ông
đã viết “Việt Nam là đối thủ được Trung Quốc chọn để khởi
chiến” vì đó là “quốc gia có sức mạnh trung bình dễ bị đánh
bại”.
Mặc
dù cuộc xung đột vẫn chưa xảy ra, Bắc Kinh một lần nữa lại
leo thang gây chiến, áp dụng chính sách “ngoại giao pháo hạm”
bằng cách ép buộc Hà Nội phải chấm dứt hoạt động thăm dò
dầu khí ở vùng biển tranh chấp.
Vào
tháng Bảy, tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc, cùng với
một đội tàu nhỏ có vũ trang, trong nhiều tuần lễ đã di chuyển
gần Bãi Tư Chính, một khu vực hàng hải trong vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam.
Giữa
tháng 8, dường như sau khi đã quay trở về Trung Quốc, tàu khảo
sát lại xuất hiện ở vùng biển Việt Nam, nơi các công ty năng
lượng địa phương và Nga đang hợp tác khai thác dầu.
Năm
ngoái, một áp lực tương tự từ Trung Quốc đã buộc Hà Nội
phải huỷ hợp đồng thăm dò dầu khí trị giá 200 triệu USD đã
ký với công ty năng lượng Tây Ban Nha Repsol. Trung Quốc tuyên bố
chủ quyền gần 90% Biển Đông thông qua cái gọi là bản đồ đường
chín đoạn, một giới tuyến rộng lớn đã bị toà án trọng tài
tại The Hague bác bỏ vào tháng Bảy 2016.
Ngày
3 tháng Chín, chương trình việt ngữ đài BBC cho biết, tàu cần
cẩu Lam Kình đã được tập đoàn dầu khí Trung Quốc chuyển vào
vùng biển Việt Nam, một hành động chắc chắn sẽ làm gia tăng
căng thẳng.
Nếu
đây là sự thật thì Trung Quốc và Việt Nam đang lặp lại tình
trạng bất ổn năm 2014, khi Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc
do nhà nước điều hành đưa giàn khoan dầu nửa chìm Hải Dương
981 và các tàu đánh cá dân quân của họ vào vùng biển mà Việt
Nam tuyên bố có chủ quyền gần quần đảo Trường Sa.
Trung
Quốc bị cáo buộc đã di chuyển tàu cẩu Lam Kinh vào lãnh hải
Việt Nam khi Việt Nam và 9 thành viên khác của Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á tham gia khai mạc các cuộc tập trận hải quân
với Hoa Kỳ tuần này.
Nó
cũng diễn ra chỉ một tháng trước khi chủ tịch nước, kiêm Tổng
bí thư đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng dự kiến sẽ đến
Washington trong chuyến viếng thăm cấp nhà nước, theo đó Hoa Kỳ
và Việt Nam sẽ nâng cấp các mối quan hệ của họ lên thành đối
tác chiến lược.
Năm
1988, quân đội Trung Quốc và Việt Nam đã giao chiến ở bãi đá
Gạc Ma quanh Biển Đông, một trận chiến đã cướp đi sinh mạng của
64 người lính Việt Nam. Sự kiện này xảy ra sau cuộc chiến biên
giới ngắn ngủi nhưng đẫm máu vào năm 1979, nơi hai bên đều mất
hàng ngàn binh lính.
Thời
thế đã thay đổi từ khi các cuộc xung đột ngắn ngủi trước đó
xảy ra. Quân đội giải phóng nhân dân (QĐGPND) [Trung Quốc] hiện là
một trong những lực lượng quân đội lớn nhất và được trang bị
tốt nhất thế giới. Năm 2017, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình
đã kêu gọi QĐGPND “thay đổi toàn diện để trở thành các lực
lượng tầm cỡ thế giới” vào năm 2050. Tuy nhiên người ta cho
rằng, Bắc Kinh vẫn rất lo lắng trước việc quân đội chuẩn bị
cách nào để đối phó với một cuộc xung đột có quy mô lớn.
Tập
đã từng nói đến chuyện QĐGPND mắc “bệnh hòa bình” vì họ
không ở trong một tình trạng xung đột thực sự trong nhiều thập
niên. Với sự chỉnh đốn hàng ngũ quan chức cao cấp kể từ cuộc
xung đột thực sự cuối cùng vào năm 1979, hầu hết bọn họ chưa
bao giờ tham gia một cuộc chiến.
Hồi
tháng Hai, Denis Blasko, một quan sát viên nổi tiếng chuyên về
quân đội Trung Quốc, đã tuyên bố rằng tuy đã đầu tư đáng kể
vào vũ khí và công nghệ và cải cách cơ cấu lớn, vẫn còn có
“sự hoài nghi về khả năng của QĐGPND và sự yếu kém trong hệ
thống giáo dục và đào tạo của QĐGPND qua việc chuẩn bị các
cấp chỉ huy và sĩ quan tham mưu cho chiến tranh trong tương lai” .
Ông nói thêm: “Vì
vậy, lãnh đạo quân đội cấp cao của Trung Quốc tỏ ra rất ít
hay không hăng hái điều động QĐGPND ra mặt trận thực sự chống
lại một kẻ thù hiện đại nhưng chọn việc đe dọa và thái độ
quyết chiến do thường dân, dân quân và quân đội phối hợp thực
hiện”, để đạt được các mục tiêu quốc gia.
Tính
bất ổn này là nhân tố của những nước mà Trung Quốc xem là đối
thủ thích hợp. Giao chiến chống lại Ấn Độ ở đồng bằng hay
trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, QDGPND cũng rút được chút kinh nghiệm
tốt để chuẩn bị cho không và hải chiến. Xung đột trên bán đảo
Triều Tiên sẽ vô cùng dữ dội và gần nhà.
Gây
chiến với Nhật Bản, Philippines và Hàn Quốc có thể sẽ kéo
theo sự can thiệp của quân đội Mỹ vì mỗi quốc gia đều có liên
minh an ninh với Hoa Kỳ. Đạo luật Quan hệ với Đài Loan (Taiwan
Relations Act) cam kết Washington sẽ bảo vệ Đài Loan trong trường
hợp quân đội Trung Quốc xâm lược.
Bắc Kinh “thích chọn một cuộc xung đột có thể thắng được” và “Việt
Nam về cơ bản không có khả năng hoạt động ngang tầm với Trung
Quốc do thiếu thốn về năng lực, đào tạo và nhân lực”, Grossman lập luận như vậy.
Một
phân tích ít mang tính học thuật hơn đã tìm hiểu lực lượng
Quân Đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) tự đánh giá về vị trí của
họ như thế nào. Hà Nội có khuynh hướng bí mật hơn Bắc Kinh và
giới khoa bảng còn kín đáo hơn nữa. Bộ Quốc phòng đã công bố
cuốn sách trắng lần chót cách đây một thập niên nhân dịp kỷ
niệm 65 năm thành lập QĐNDVN.
Tuy
nhiên, các nhà phân tích đều đồng ý là Hà Nội ngày càng chú
trọng đến các vấn đề quân sự khi căng thẳng ở Biển Đông gia
tăng từng năm.
Hồi
tháng Tư, Businesswire báo cáo rằng, chính phủ Việt Nam đã
dành 5,1 tỷ USD cho chi phí quốc phòng trong ngân sách năm nay,
1/3 trong số tiền đó sẽ dùng vào việc mua sắm thiết bị quốc
phòng. Một số nhà phân tích ước tính chi tiêu quân sự của Hà
Nội có thể tăng lên 7,9 tỷ USD vào năm 2024.
Cũng
có một số dấu hiệu lo ngại nhất định về sự sẵn sàng ứng
chiến của quân đội – cần phải làm nhiều hơn nữa. Hồi tháng
Sáu, tạp chí quốc phòng quốc gia do Bộ quốc phòng Việt Nam
điều hành, đã đăng một tiểu luận về việc đào tạo quân đội và
nguồn nhân lực.
“Việc
đào tạo cấp chỉ huy không đồng đều và mất quân bình; nội dung
và chương trình đào tạo vẫn còn chậm chạp, không kịp cải
tiến; cập nhật kiến thức và công nghệ quân sự mới không cao hơn”, bài tiểu luận cảnh báo như vậy.
Rõ ràng là Việt Nam có quân đội yếu hơn nhiều so với Trung Quốc.
Việt
Nam chi khoảng 5 tỷ USD cho quân đội của mình; Trung Quốc chi 220
tỷ USD. Trung Quốc có số lượng nhân viên tích cực nhiều gấp 5
lần Việt Nam; số lượng máy bay gấp 10 lần (TQ: 3187 / VN: 318);
và số tàu hải quân gần gấp 11 lần TQ: 714 / VN: 65). Trung Quốc
cũng có thiết bị tốt hơn nhiều. Lực lượng hải quân của QĐGPND
có tàu sân bay và khu trục hạm, những thứ Việt Nam còn thiếu.
Hầu
hết các nhà phê bình cho rằng, với sự bất cân xứng này, chọn
lựa chiến lược duy nhất của Việt Nam là phòng thủ nếu xảy ra
xung đột. Tuy vậy, ở Hà Nội vẫn không có sự đồng thuận về
điều này.
Trong
một bài viết cho tạp chí quốc phòng quốc gia xuất bản vào
ngày 30 tháng Tám, bộ trưởng thông tin Nguyễn Mạnh Hùng – cũng
là một thiếu tướng trong QĐNDVN và là cựu chủ tịch Viettel,
một tập đoàn thuộc quyền sở hữu của quân đội – đã viết rằng,
“trong tương lai, nếu chiến tranh xảy đến với đất nước
chúng ta, đó sẽ là một cuộc chiến của nhân dân để bảo vệ một
đất nước phát triển chống lại sự xâm lược của kẻ thù”.
Tuy nhiên, ông lưu ý rằng “trong
những cuộc chiến chống lại tổ tiên chúng ta trước kia và Đảng
của chúng ta sau này, đất nước chúng ta thường phải đối mặt
với những kẻ thù có sức mạnh quân sự vượt trội, nhưng chúng
ta đã coi sự tấn công như tư tưởng thống trị thay vì thụ động
hay phòng thủ thụ động”.
“Suy
nghĩ tấn công”, ông nói tiếp, tạo ra sự đoàn kết trong nhân dân
và niềm tin là họ không đầu hàng dù kẻ thù mạnh đến mức độ
nào. Tuy nhiên, ông cũng sử dụng cụm từ “phòng ngự tích cực”
giống như khái niệm phòng thủ tích cực của Trung Quốc, một
thuật ngữ được nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình sử dụng trong thập
niên 1980, với ý nghĩa phòng thủ chiến lược nhưng hoạt động
tấn công.
Điều
này cho thấy, các quan chức cao cấp của đảng Cộng sản Việt
Nam đang nghiêm túc cân nhắc khả năng chiến tranh và sẽ tiến
hành nó như thế nào. Hẳn không phải ngẫu nhiên mà đảng Cộng
sản đã dành khoảng thời gian trống nhiều hơn cho báo chí viết
về năm kỷ niệm cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung.
Các
báo cáo từ đầu năm cho thấy, Việt Nam đã âm thầm mở rộng lực
lượng dân quân biển và trang bị thêm cho lực lượng bảo vệ bờ
biển để chuẩn bị chiến thuật công kích, thậm chí còn mạnh
bạo hơn cả Trung Quốc.
Do
thua kém về quân sự, khả năng răn đe lớn nhất của Việt Nam rất
có thể sẽ thông qua quan hệ với các đối tác quốc tế. Hà Nội
đã bận rộn kết bạn mới. Chẳng hạn như tháng trước Việt Nam
đã đồng ý mở rộng quan hệ quốc phòng với Nam Phi, trong khi
thủ tướng Úc Scott Morrison tái khẳng định sự hợp tác quân sự
của họ trong chuyến thăm dự kiến sẽ đến Hà Nội.
Trong
năm nay, Việt Nam cũng đã ký các thỏa thuận quốc phòng mới
với Liên minh Âu châu và Nhật Bản. Tuy nhiên, điều quan trọng
nhất vẫn là, liệu Hà Nội có thể giành được nhiều bảo đảm
chiến lược hơn từ Hoa Kỳ, kẻ thù trước kia trên chiến trường.
Do
đó, đa phần tùy thuộc vào chuyến thăm Washington sắp tới của
Trọng. Cho đến khi phần lớn còn dễ dàng – quan hệ giữa Hoa Kỳ
và Việt Nam tốt hơn nhiều so với những gì người ta nghĩ – nó
sẽ gửi một tín hiệu mạnh mẽ hơn, cho biết Washington ủng hộ
Việt Nam và đóng vai trò răn đe lâu dài đối với Trung Quốc, nếu
hai bên đồng ý nâng cấp quan hệ chiến lược.
Gần
như chắc chắn, nó sẽ dừng lại ở một hiệp ước quốc phòng vì
các quy tắc trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam – cái gọi là
chính sách “ba không” – đã cấm họ ký hiệp ước quân sự với
các quốc gia khác. Tuy vậy, một quan hệ đối tác vô điều kiện
có thể cho phép các tàu hải quân Mỹ ghé thăm Việt Nam nhiều
hơn – điều mà Washington muốn – và có lẽ Hà Nội sẽ cam kết mua
thêm thiết bị quân sự của Hoa Kỳ.
Việt
Nam hiện mua 4/5 thiết bị quân sự của mình từ Nga và 1/10 từ
Israel. Để đền bù cho việc Việt Nam mua sắm quốc phòng nhiều
hơn, Washington có thể cho quốc gia này biết rõ là họ có bị
trừng phạt hay không, chiếu theo đạo luật dông dài tên là
Countering America’s Adversaries Through Sanctions Act (CAATSA: Đạo
luật chống những kẻ thù của Mỹ thông qua chế tài) mà Hoa Kỳ
áp dụng để trừng phạt các quốc gia mua vũ khí của Nga.
Việt
Nam tạm thời được miễn trừ CAATSA, như mong muốn của cựu bộ
trưởng quốc phòng James Mattis. Nhưng để được miễn trừ lâu hơn,
Hà Nội phải chứng tỏ họ đang giảm phụ thuộc vào Nga trong
việc nhập khẩu quân sự.
Bằng
cách mua thêm thiết bị quân sự của Mỹ, Việt Nam sẽ giảm thặng
dư thương mại đáng kể với Mỹ, điều vốn vẫn làm chính quyền
Trump khó chịu.
Washington
chắc chắn cương quyết chống lại các hành động mới nhất của
Bắc Kinh ở Biển Đông, điều mà Bộ Ngoại giao Mỹ mô tả là “sự
can thiệp cưỡng bức đối với các hoạt động dầu khí lâu đời
của Việt Nam”. Tháng trước, bộ ngoại giao cũng lưu ý rằng Trung
Quốc đang cố gắng ngăn chặn sự tiếp cận với “nguồn tài
nguyên hydrocarbon chưa được khai thác, trị giá khoảng 2,5 tỷ USD”
ở Biển Đông.
Đồng
thời, trong một báo cáo vào năm ngoái, Bộ Quốc phòng Mỹ nhấn
mạnh rằng, Trung Quốc là nước tiêu thụ dầu thô đứng hàng thứ
hai trên thế giới và là nước tiêu thụ khí đốt tự nhiên đứng
hàng thứ ba. Hơn nữa, do phụ thuộc vào khí đốt nhập khẩu,
chiếm 67% nhu cầu trong năm 2017, có thể tăng lên 80% vào năm 2035,
tầm quan trọng của các nguồn tài nguyên chưa được khai thác ở
Biển Đông được nâng lên.
Hoa
Kỳ cần phải chứng tỏ là họ nghiêm túc bảo đảm an ninh cho
Việt Nam đối với Trung Quốc. Hà Nội chắc chắn không quên việc
tổng thống Mỹ Barak Obama từ chối bảo vệ một đồng minh khi
Trung Quốc chiếm giữ Bãi Cạn của Philippines năm 2012. Obama cũng
không hề ủng hộ Việt Nam chống lại vụ tàu Hải Dương 918 năm
2014.
Trump
đa phần cũng tiếp tục đi cùng hướng, đưa ra những tuyên bố
nghiêm khắc nhưng không ủng hộ bằng hành động khi Trung Quốc
thành công buộc Việt Nam phải hủy bỏ các thỏa thuận thăm dò
dầu khí vào năm ngoái và tại các khu vực đang tranh chấp ở
Biển Đông năm 2017.
Các
cuộc diễn tập nhằm tạo áp lực của Trung Quốc gần Bãi Tư
Chính và việc di chuyển tàu cẩu vào vùng biển Việt Nam đang bị
lên án, trở thành nguy hiểm hơn khi các tàu lớn của nước này
gia tăng lui tới các cơ sở nhân tạo của hải quân và không quân
mà họ mới phát triển trên biển.
Điều
này có nghĩa là, các tàu không còn cần phải quay về lục địa
Trung Quốc để tiếp thêm nhiên liệu và bảo trì trong cuộc hành
trình vào Biển Đông. Đó cũng có nghĩa là, họ có thể tuần tra
gần bờ biển Việt Nam hơn và trong thời gian lâu hơn.
Tàu
Hải Dương 8 của Trung Quốc hiện đang đối đầu với các tàu của
Việt Nam tại bãi Tư Chính, theo báo cáo, đã đến một căn cứ
hải quân mới được thành lập trên Bãi Chữ Thập để tiếp nhận
nguyên liệu trước khi trở lại tiếp tục tranh chấp.
Nếu
cuộc đối đầu với Việt Nam leo thang thành cuộc xung đột vũ
trang, nó có thể cung cấp cho Trung Quốc một trường hợp thử
nghiệm để tiến hành một cuộc chiến lớn hơn có thể xảy ra ở
vùng biển tranh chấp trong những năm sắp tới.
Tác giả: David Hutt
Dịch giả: Hoàng Thủy Ngữ
5-9-2019