Mỏ dầu cạn kiệt: Tình huống báo động của Việt Nam (Vietnamnet)
Bán tài nguyên đất nước để duy trì sự tồn vong của chế độ là ưu tiên số 1 của đảng cộng sản. Mấy chục năm qua tài nguyên khoáng sản Việt Nam đã bị khai thác với tốc độ tối đa nên giờ đã đến lúc cạn kiệt. Không chỉ dầu mỏ mà tất cả các nguồn khoáng sản như than đá cũng chịu chung số phận. Dầu mỏ mang về một khối ngoại tệ rất lớn và quan trọng cho ngân sách Việt Nam. Nay các giếng dầu gần bờ đã hết mà ra xa thì Trung Quốc quấy phá và ngăn cản nên "báo động" là đương nhiên. Ban lãnh đạo tập đoàn dầu khí thì bị "phe thắng cuộc" dập cho lên bờ xuống ruộng. Một lý do quan trọng nữa khiến giá dầu không thể tăng giá là vì thế giới bắt đầu hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch mà thay vào đó là nhiên liệu tái tạo từ thiên nhiên.
Báo động về sản lượng
Theo báo cáo của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN),
sản lượng khai thác dầu trong nước năm 2018 đạt 12 triệu tấn, vượt 675
nghìn tấn, tương đương 6% so với kế hoạch Chính phủ giao đầu năm. Nhờ đó
số nộp ngân sách nhà nước vượt 47,5 nghìn tỷ đồng, góp phần quan trọng
vào tăng trưởng GDP cả nước 7,08%...
Doanh thu toàn
tập đoàn vượt 18% kế hoạch, tăng 26% so với cùng kỳ năm 2017. Nộp ngân
sách vượt tới 64% kế hoạch, tăng 24% so với năm 2017. Nguyên nhân chủ
yếu là giá dầu tăng mạnh so với 2017.
Thế nhưng, sau những thành tích ấy, người làm dầu khí còn không ít nỗi lo, trong đó nổi lên là việc tìm kiếm các mỏ dầu mới.
Năm 2018 gia tăng trữ lượng dầu khí năm 2018 vẫn đạt được 12 triệu tấn quy dầu (kế hoạch là 10-15 triệu tấn).
Gia
tăng trữ lượng dầu khí tuy đạt kế hoạch đề ra năm 2018 song đây vẫn là
năm thứ ba liên tiếp công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí gặp nhiều khó
khăn. Nếu so với mục tiêu chiến lược phát triển mà ngành dầu khí đề ra ở
trong nước là 20-30 triệu tấn/năm và ở nước ngoài là 8-12 triệu tấn/năm
(tổng cộng là 28-42 triệu tấn/năm) thì không hoàn thành và đạt thấp hơn
nhiều so với mục tiêu chiến lược đề ra.
Thực tế, điều
kiện khai thác ở các mỏ dầu khí chủ lực đã chuyển sang giai đoạn suy
giảm sản lượng hay có độ ngập nước cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro, như mỏ
Bạch Hổ, Tê Giác Trắng, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Rạng Đông...
Theo PVN, việc gia tăng trữ lượng dầu khí,
bù đắp vào sản lượng khai thác hàng năm, đảm bảo sự phát triển bền vững
của tập đoàn “vẫn là thách thức vô cùng lớn”. Tiềm năng dầu khí chưa
phát hiện còn lại được đánh giá tập trung chủ yếu ở vùng nước sâu, xa
bờ, nhạy cảm về chính trị, nhưng khu vực này cần công nghệ khoan nước
sâu, đầu từ lớn, rủi ro cao, thường xuyên bị nước ngoài gây sức ép, cản
trở.
Trong khi đó, PVN cho rằng sự can thiệp của nước
ngoài ở cụm phát hiện Cá Rồng Đỏ lô 07/03 đã “ảnh hưởng nặng nề” đến
hoạt động phát triển mỏ của tập đoàn.
PVN nhận định
tình hình biển Đông diễn biến phức tạp đã có tác động nặng nề đến công
tác tìm kiếm thăm dò và phát triển chung của tập đoàn.
Báo
cáo của PVN cho thấy: Hệ số gia tăng trữ lượng bù trừ vào sản lượng
khai thác vẫn đang ở mức báo động (0,54 lần). Trong khi giai đoạn
2011-2015 hệ số này đạt 1,5 lần - mức an toàn phát triển bền vững thì
tình hình dầu xấu đi. Năm 2016 đạt 0,65 lần. Riêng năm 2017 đạt 0,17 lần
- là mức báo động nghiêm trọng.
Hết thời hoành tráng
Trước
đây hàng năm, PVN khoan 30-40 giếng thăm dò, chi phí tốn từ 2-2,5 tỷ
USD, gia tăng được 35-40 triệu tấn quy dầu. Thế nhưng, từ 2015 trở lại
đây, đầu tư của ta và nước ngoài chỉ khoảng 400-500 triệu USD cho tìm
kiếm thăm dò, giảm 5 lần so với trước.
Các phát hiện
dầu khí giai đoạn gần đây phần lớn có trữ lượng nhỏ, do giá dầu thấp nên
hiệu quả kinh tế không cao, dẫn đến số lượng công trình khai thác mới
đưa vào để bổ sung sản lượng khai thác rất ít. Trong hai năm 2017 và
2018, chỉ có 3 mỏ/công trình mới vào khai thác (năm 2017 đưa giàn Thỏ
Trắng - 3 mỏ Thỏ Trắng của VSP vào khai thác; năm 2018 đưa 2 mỏ vào khai
thác là Bunga Pakma và Phong Lan Dại).
Một khó khăn
khác ảnh hưởng đến công tác thăm dò, theo PVN, đó là nguồn vốn để thực
hiện công tác tìm kiếm thăm dò gặp khó khăn do cơ chế trích lập, quản
lý, và sử dụng Quỹ tìm kiếm thăm dò dầu khí. PVN đã kiến nghị đề xuất
trong Quy chế quản lý tài chính Công ty mẹ - Tập đoàn, đến nay vẫn chưa
được cấp thẩm quyền phê duyệt.
Cụ thể hơn, những người làm công tác tìm kiếm thăm dò còn nỗi lo xử lý chi phí các mỏ thăm dò không thành công.
Năm
ngoái, một lãnh đạo của PVN đã than thở: “Những năm qua ta tiêu tương
đối nhiều tiền, có nơi thành công nơi chưa thành công. Đó là quy luật
của tìm kiếm thăm dò. Cái này phải được đánh giá và hạch toán theo đúng
thông lệ quốc tế. Số tiền này ngày càng tích lại, nếu không xử lý được
thì giống như đang để một cái gông trên cổ”.
Việc tìm
kiếm thăm dò khó khăn, còn ảnh hưởng đến loạt công ty khác của PVN. Đơn
cử như Tổng công ty CP Khoan và Dịch vụ khoan dầu khí. Do có ít chương
trình khoan nên giàn khoan PV Drilling V đã được đưa vào tình trạng cold stack (dừng
hoàn toàn) tại cầu cảng PV Shipyard Vũng Tàu từ tháng 11/2016. Dự kiến,
giàn PV Drilling V sẽ không có việc làm trong thời gian dài. Dự kiến số
lượng giếng khoan tại Việt Nam năm 2019 ít nên các giàn khoan và dịch
vụ của PVDrilling tiếp tục có ít việc làm. Sang năm 2019, các khó khăn
và thách thức của PV Drilling sẽ ở mức độ cao hơn và phức tạp hơn so với
năm 2018.
Tổng công ty Tư vấn Thiết kế dầu khí (PVE)
cũng thiếu công việc trầm trọng bởi vì hầu hết các dự án dầu khí lớn
tiếp tục giãn/dừng triển khai dẫn đến nhu cầu cung cấp dịch vụ và giá
dịch vụ giảm mạnh. Lĩnh vực cốt lõi của đơn vị này là tư vấn thiết kế
tuy nhiên khối lượng công việc chỉ khoảng 20%, ảnh hưởng đáng kể đến các
chỉ tiêu kế hoạch của PVE trong các năm gần đây và những năm tiếp theo.
Cụ thể, doanh thu năm 2018 của lĩnh vực này chỉ bằng khoảng 20% doanh
thu năm 2015.
Lương Bằng