Khủng hoảng tài chính Trung Quốc đã bắt đầu? (Michael Schuman)
Nội dung bài viết gần như trùng hợp 100% với ba bài viết của ông Nguyễn Gia Kiểng về Trung Quốc mới đây (Trung Quốc-2018). Tác giả lý giải rằng sỡ dĩ kinh tế TQ không sụp đổ ngay như các nước khác mà diễn ra từ từ và hậu quả càng thêm nặng nề vì đảng cộng sản TQ cố can thiệp để nó diễn ra như vậy. Cách giải thích của ông Nguyễn Gia Kiểng đơn giản, cụ thể và dễ hiểu hơn.
Một lần nữa, các nhà đầu tư thế giới đang hướng ánh mắt lo lắng về phía Trung Quốc. Và
họ có lý do để làm điều đó. Tăng trưởng kinh tế trong quý thứ ba đã
giảm xuống còn 6,5%, tốc độ chậm nhất kể từ giai đoạn đỉnh điểm khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2009. Lần đầu tiên số lượng tiêu thụ xe hơi
đã giảm trong hơn hai thập niên. Thông báo của Apple vào đầu tháng 1
rằng doanh số iPhone tại Trung Quốc đang chùng xuống đã cảnh báo thế
giới về việc một Trung Quốc đang trì trệ sẽ kéo giảm tốc độ tăng trưởng
toàn cầu và lợi nhuận của các công ty.
Nhưng
người Trung Quốc đã nhận thấy điều đó một thời gian trước. Ngay cả sau
một đợt tăng giá gần đây, thị trường chứng khoán Thượng Hải vẫn sụt giảm
hơn một phần tư so với mức đỉnh năm 2018. Triển vọng cũng không sáng
sủa hơn. Thuế quan đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ do
Tổng thống Donald Trump áp đặt đang bắt đầu gây tổn thương cho các nhà
máy của nước này. Một sự sụt giảm mạnh và bất ngờ trong kim ngạch nhập
khẩu tháng 12 cho thấy nền kinh tế đang giảm tốc mạnh như thế nào. Điều
đó đã khiến Bắc Kinh phải xuống nước và đàm phán với Washington để xoa
dịu cuộc xung đột.
Một
thỏa thuận thương mại, nếu xảy ra, có thể làm dịu lo lắng cho các nhà
đầu tư, và thậm chí có thể giúp kích thích tăng trưởng kinh tế, ít nhất
là tạm thời. Nhưng nó sẽ không giúp chấm dứt các tai ương của Trung
Quốc. Mặc dù thuế quan là một mối lo lớn, nhưng các vấn đề thực sự lại
ăn sâu hơn, tồn tại chính trong cấu trúc tài chính của Trung Quốc.
Điều ít người chú ý là Trung Quốc thực tế đã lâm vào khủng hoảng.
Không,
đó không phải là kiểu sụp đổ sống còn mà Hoa Kỳ đã chứng kiến trong năm
2008 hay cuộc khủng hoảng dữ dội, đáng kinh ngạc mà các con hổ kinh tế
Châu Á đã trải qua vào năm 1997. Tuy nhiên, đó là một cuộc khủng hoảng,
với các ngân hàng đầm đìa nợ xấu, các công ty phá sản, và nhà nước phải
ra tay giải cứu. Do Trung Quốc gọi mô hình chủ nghĩa tư bản nhà nước của
mình là "chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc", nên chúng ta hãy cứ
gọi đây là một cuộc "khủng hoảng tài chính mang màu sắc Trung Quốc".
Cuộc
khủng hoảng này không chỉ đơn thuần là về tốc độ tăng trưởng hiện tại
chậm lại. Nó đã diễn ra trong một thời gian và nếu xét các triệu chứng
thì nó cũng sẽ không sớm biến mất. Cách cuộc khủng hoảng được (hoặc
không được) giải quyết sẽ có tác động sâu rộng lớn hơn nhiều so với việc
một vài quý có tốc độ tăng trưởng thấp. Cuộc khủng hoảng này là về
tương lai kinh tế của Trung Quốc và liệu nước này có thể quản lý được
quá trình chuyển đổi cơ cấu cần thiết để đưa nền kinh tế bước vào hàng
ngũ những nền kinh tế tiên tiến nhất thế giới hay không. Và nó cũng sẽ
xác định liệu Trung Quốc có thể trở thành một trụ cột tăng trưởng toàn
cầu hay là một mối đe dọa đối với sự ổn định tài chính thế giới.
Nhìn bề ngoài, ý kiến cho rằng Trung Quốc đang gặp khủng hoảng nghe có vẻ vô lý. Tăng trưởng đã giảm dần nhưng vẫn tương đối
cao nếu bạn tin vào số liệu của chính phủ. Các ngân hàng và công ty
chưa rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán trên quy mô lớn. Đồng
nhân dân tệ thậm chí đã có dấu hiệu tăng giá trở lại trong những ngày
gần đây. Dù sự lo lắng về tình trạng của nền kinh tế đã gia tăng khiến
người tiêu dùng Trung Quốc giảm chi tiêu, nhưng tâm trạng ở Trung Quốc
vẫn chưa biến thành sự u ám điển hình của các cuộc khủng hoảng tài
chính.
Vậy thì sao lại khủng hoảng ? Khủng hoảng kiểu gì ?
Thật
vậy, Trung Quốc có thể không bao giờ phải chịu đựng nỗi hoảng loạn kinh
hoàng như ở Phố Wall năm 2008. Cuộc khủng hoảng tài chính mang màu sắc
Trung Quốc không diễn ra giống như hầu hết các các cuộc khủng hoảng tài
chính khác. Thay vì là một vụ nổ bất ngờ phá hủy các ngân hàng và công
ăn việc làm, phiên bản khủng hoảng Trung Quốc sẽ kéo dài, diễn ra chậm
đến mức khó có thể nhận thấy. Nhưng cuối cùng, phí tổn và hệ quả sẽ
tương tự như – và thậm chí còn tồi tệ hơn – cả các cuộc khủng hoảng
truyền thống mà chúng ta từng chứng kiến.
Một
vài năm trước, một số nhà quan sát Trung Quốc (trong đó có tôi) dự đoán
nền kinh tế nước này có thể sụp đổ theo kiểu tương tự như năm 2008. Tất
cả các đèn cảnh báo cho thảm họa đã nhấp nháy màu đỏ : bong bóng nhà
đất, công suất dư thừa trong các ngành công nghiệp từ thép đến sản xuất
tấm pin mặt trời, và đáng lo ngại nhất là sự tích tụ nợ ở mức khổng lồ.
Theo Ngân hàng Thanh toán Quốc tế, tổng số nợ so với sản lượng quốc gia
đã tăng lên tới mức 253% vào giữa năm 2018, từ mức chỉ 140% một thập
niên trước đó. Không nền kinh tế mới nổi nào kể từ những năm 1990 trải
qua một quá trình tăng nợ quá mức như vậy mà lại thoát khỏi được một
thảm họa tài chính. Trung Quốc sẽ phải thách thức lịch sử nếu muốn tránh
được một thảm họa nợ nần.
Chúng
ta đã theo dõi và chờ đợi một "khoảnh khắc Lehman Brothers" ở Trung
Quốc – và cứ thế chờ đợi thêm. Nó không bao giờ xảy đến. Một số nhà phân
tích đã nhận ra rằng nó sẽ không bao giờ xảy ra bởi thực sự Trung Quốc
đã lớn tới mức không thể đổ vỡ (too big too fail). Lập luận mới cho rằng
chính phủ Trung Quốc có rất nhiều đòn bẩy trong việc kiểm soát các ngân
hàng, các tập đoàn lớn và dòng vốn, họ có thể ngăn chặn khủng hoảng
theo cách mà một nền kinh tế tự do hơn không thể ngăn chặn. Siêu cường
này đã thể hiện điều đó vào năm 2015 sau khi một bong bóng thị trường
chứng khoán nổ tung, đi kèm cùng việc quản lý cho vay yếu kém và sự bất
lực của bộ máy quan liêu. Tiền chảy ra khỏi đất nước khi đồng nhân dân
tệ loạng choạng. Những gì có thể đã khiến các thị trường mới nổi khác
sụp đổ đã được giải quyết chỉ bằng một ngày làm việc của các quan chức
đầy quyền lực của Trung Quốc. Chính phủ đã tổ chức một gói cứu trợ chứng
khoán và kiểm soát dòng vốn. Cuộc khủng hoảng được ngăn chặn.
Cách
tiếp cận đó đại diện cho chiến lược tổng thể của Bắc Kinh về vấn đề nợ.
Chính phủ – vốn bị ám ảnh về sự ổn định xã hội – không cho phép trái
bom phát nổ. Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính mang màu sắc Trung Quốc
vẫn đang gây ra thiệt hại cho nền kinh tế như bao cuộc khủng hoảng khác.
Như trong bất kỳ cuộc khủng hoảng nợ nào khác, sức khỏe của các ngân hàng Trung Quốc đang bị xói mòn một cách nguy hiểm.
Mặc
dù tỉ lệ nợ xấu đạt mức cao nhất trong một thập niên vào cuối năm 2018,
nhưng chúng vẫn ở mức dưới 2% tổng dư nợ theo số liệu chính phủ. Hầu
như không ai tin vào thống kê này. Charlene Chu, một giám đốc cao cấp
của công ty Autonomous Research và là một trong các chuyên gia hàng đầu
về rủi ro tín dụng tại Trung Quốc, ước tính rằng mức nợ xấu phải lên tới
24% tổng tín dụng, trị giá khoảng 8,5 nghìn tỷ đô la. Điều đó nghe có
vẻ thái quá, nhưng trong cuộc khủng hoảng năm 1997, các khoản nợ xấu ở
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan đã lên tới một phần ba tổng số các khoản
vay.
Như
thường thấy trong các cuộc khủng hoảng, mức độ thực sự của nợ xấu và
thiệt hại có lẽ cao hơn mức mà người ta có thể dự đoán. Trong một nghiên
cứu vào tháng 10, S&P Global Ratings lưu ý rằng số nợ của các chính
quyền địa phương ở Trung Quốc vẫn còn là một bí ẩn, vì rất nhiều trong
số đó được đưa ra ngoài bảng cân đối kế toán. Khoản nợ ngầm đó có thể
gấp nhiều lần con số được tiết lộ công khai. S&P gọi nó là "phần nổi
của một tảng băng rủi ro tín dụng khổng lồ". Các chính quyền địa phương
thường tìm cách chi tiêu vào cơ sở hạ tầng để kích thích tăng trưởng,
nhưng với một núi nợ, vai trò đó đang đạt đến mức giới hạn.
Trung Quốc cũng đang đối phó với một đặc điểm khác của một cuộc khủng hoảng tài chính : dòng vốn chảy ra ngoài.
Nhờ
sự kiểm soát chặt chẽ, dòng tiền không thể tháo chạy nhanh như nó có
thể dưới một chế độ ít mang tính kiểm soát hơn. Nhưng dù sao dòng tiền
cũng sẽ chảy ra nước ngoài. Người Trung Quốc đã đứng đầu danh sách người
nước ngoài mua nhà đất ở Hoa Kỳ trong sáu năm liên tiếp, theo Hiệp hội
Bất động sản Quốc gia. Trong 12 tháng tính đến hết tháng 3 vừa qua, họ
đã mua hơn 30 tỷ đô la giá trị nhà đất ở Mỹ. Người Canada chỉ mua một
phần ba mức đó ; còn người Anh và người Ấn Độ chỉ mua bằng một phần tư.
Về
lý thuyết, cuộc khủng hoảng tài chính theo kiểu Trung Quốc có những
"lợi thế" nhất định so với các loại khủng hoảng thông thường. Bằng cách
duy trì tăng trưởng và việc làm, Bắc Kinh có thêm thời gian để sửa chữa
hệ thống. Các nhà quản lý đang cố gắng dọn dẹp một số vấn đề : Các công
ty phá sản đã tăng mạnh vào năm ngoái. Nhưng trong thực tế, chính phủ
đang khiến cuộc khủng hoảng kéo dài bằng cách dọn dẹp rác tài chính quá
chậm. Những điều cần làm có lẽ là phải đại tu quy mô lớn các doanh
nghiệp nhà nước cồng kềnh kém hiệu quả. Nhưng thậm chí tệ hơn, các nhà
hoạch định chính sách đang tiếp tục đổ thêm vào đống rác đó. Họ vẫn cố
tìm cách đạt được các mục tiêu tăng trưởng vốn không thể đạt được nếu
không bơm thêm tín dụng. Trung Quốc là một kẻ nghiện nợ, và giống như
bất kỳ con nghiện nào, họ cần thêm liều tín dụng để tiếp tục phát triển.
Khi các liều cứu trợ ngắn hạn đó mất đi, nền kinh tế lại bắt đầu chậm
lại. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc lại bị lung lay, mất quyết tâm xử lý nợ
và lại chích thêm một liều tín dụng mới.
Họ
lại đang thử lại cách đó. Phần lớn tăng trưởng chậm lại gần đây là do
những nỗ lực của chính phủ nhằm hạn chế nợ. Vì vậy, các nhà hoạch định
chính sách, như thường lệ, lại đang mở van tín dụng trở lại. Hồi đầu
tháng Một, ngân hàng trung ương đã giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc, cho phép
các ngân hàng cho vay nhiều hơn. Chắc chắn điều này sẽ tạo ra thêm nhiều
nợ xấu. Theo Dinny McMahon, tác giả cuốn sách "China’s Great Great Wall
of Debt", thêm nhiều khoản nợ được tạo ra và các khoản nợ đó được sử
dụng để tạo ra tất cả những thứ gây nên vấn đề suốt thập niên qua.
Theo nghĩa đó, chính phủ đang khiến cho cuộc khủng hoảng tài chính mang màu sắc Trung Quốc trở nên tồi tệ hơn một cuộc khủng hoảng tài chính tiêu chuẩn.
Những
khoảnh khắc Lehman có thể đáng sợ, nhưng chúng cũng mang tính thanh
lọc, một cơ hội cho thị trường đào thải những thực thể yếu kém và tạo
không gian cho các thực thể mới và tốt hơn. Bằng cách ngăn chặn điều đó
xảy ra, Bắc Kinh lại đang cho phép những thứ cặn bã thối rữa thêm, có
khả năng làm tăng chi phí dọn dẹp không thể tránh khỏi sau này.
Cuối
cùng, nhà nước sẽ phải can thiệp và giải quyết mớ hỗn độn đó, giống như
chính phủ Hoa Kỳ đã phải làm trong năm 2008. Giải cứu hệ thống ngân
hàng Trung Quốc có thể sẽ đòi hỏi phải có một Chương trình Cứu trợ Tài
sản xấu khổng lồ. Chúng ta có thể hình dung sơ bộ chi phí sẽ lớn như thế
nào nếu nhìn lại các cuộc khủng hoảng trong quá khứ. Chính phủ Hàn Quốc
đã chi tương đương 31% GDP để cứu hệ thống tài chính của mình sau cuộc
khủng hoảng năm 1997. Nếu sử dụng mức đó để tham khảo, chi phí Trung
Quốc phải bỏ ra có thể đạt 3,8 nghìn tỷ đô la. Nó có thể còn cao hơn.
Indonesia đã phải chi 57% tổng sản phẩm quốc nội cho việc tái cấu trúc
sau khủng hoảng năm 1997.
Trong
khi đó, nền kinh tế bị đè nặng. Quá nhiều khoản nợ của Trung Quốc đã
được tích tụ theo một cách không hiệu quả – các nhà máy không cần thiết,
các công ty xác sống mất khả năng thanh toán – và sự phân bổ tài nguyên
sai lệch đó đang ăn mòn các động lực tăng trưởng chính. Conference
Board – một hiệp hội nghiên cứu có trụ sở tại New York, tính toán rằng
mức tăng năng suất của Trung Quốc đã âm từ năm 2012.
Tất cả điều này dẫn đến một vòng xoáy đi xuống.
Với
việc Trung Quốc đã bị chôn vùi trong nợ nần, mỗi nỗ lực kích thích nền
kinh tế bằng tín dụng mới lại có tác dụng ngày càng nhỏ hơn. Như công ty
nghiên cứu Fathom Consulting đã giải thích trong một nghiên cứu vào
tháng 10, mô hình kinh tế cũ của Trung Quốc "đang cho thấy mức lợi nhuận
cận biên giảm dần". Có những dấu hiệu cho thấy điều đó đang xảy ra. Mặc
dù có nhiều tháng cho vay nới tay nhưng tăng trưởng tín dụng đã không
tăng mạnh như các nhà hoạch định chính sách mong muốn. Nỗi lo sợ gia
tăng về tình trạng nền kinh tế kết hợp với mức nợ đáng kinh ngạc đang
khiến chính phủ gặp khó khăn hơn trong việc dựa vào tín dụng bổ sung để
duy trì mức tăng trưởng của Trung Quốc.
Có
lẽ sẽ đến một thời điểm mà ngay cả các nhà hoạch định chính sách Trung
Quốc cũng nhận ra rằng núi nợ này nguy hiểm đến mức việc kiểm soát nó
phải được ưu tiên hơn so với tăng trưởng. Mặc dù vậy, thật khó để tưởng
tượng điều gì có thể đánh thức họ. Lạm phát cao hơn có thể là một yếu tố
thay đổi cuộc chơi, vì điều đó sẽ khiến ngân hàng trung ương khó có thể
tiếp tục bơm vào số tiền mặt mà hệ thống cần có để duy trì hoạt động.
Nhưng điều đó khó có khả năng xảy ra, ít nhất là trong ngắn hạn. Lạm
phát giảm mạnh đang làm dấy lên mối lo rằng Trung Quốc có thể bước vào
thời kỳ giảm phát, khiến cho núi nợ của nước này thậm chí còn trở nên
nặng nề hơn.
Giải
pháp thực sự duy nhất, như McMahon lưu ý, là thay đổi mô hình tăng
trưởng của nền kinh tế. Các nhà kinh tế và chính sách đã tranh luận về
việc Trung Quốc cần phải "cân bằng lại" – chuyển động lực tăng trưởng từ
đầu tư sang tiêu dùng. Điều đó không xảy ra đủ nhanh. Mỗi lần chính phủ
sử dụng tín dụng để thúc đẩy tăng trưởng, nó lại tạo ra trở ngại cho
cải cách hệ thống kinh tế. Theo công ty Fathom Consulting, Bắc Kinh đang
"né tránh các thực tế kinh tế của việc tái cân bằng trong khi tích tụ
thêm các vấn đề cho tương lai".
Vấn
đề cơ bản là các cải cách tự do hóa vốn có thể đưa nền kinh tế đi theo
hướng lành mạnh hơn đã biến mất, và không có sự hồi sinh nào cho chúng
trong tương lai gần. Ưu tiên hàng đầu của Chủ tịch Tập Cận Bình là áp
đặt sự kiểm soát của Đảng Cộng sản lên mọi thứ, vì vậy, ông duy trì
chương trình nghị sự kinh tế dựa vào đầu tư và các doanh nghiệp quốc
doanh vốn là trung tâm của cuộc khủng hoảng tài chính mang màu sắc Trung
Quốc này. Các chính sách công nghiệp mới nhất của ông có thể mang lại
các sản phẩm hấp dẫn hơn như robot, vi mạch, xe điện, nhưng chúng có thể
tạo ra một mớ hỗn độn cũ : quá nhiều nhà máy, quá nhiều nợ, quá nhiều
thứ bỏ đi.
Ngay
cả khi cách tiếp cận của Tập khai sinh ra các ngành nghề mới và tăng
trưởng kinh tế, điều đó vẫn không nhất thiết giúp giải quyết các tác hại
đã được gây ra. Các khoản nợ xấu đã không biến mất một cách thần kỳ. Sự
khác biệt thực sự duy nhất giữa một cuộc khủng hoảng tài chính thông
thường và một cuộc khủng hoảng tài chính mang màu sắc Trung Quốc là thời
gian. Hầu hết các biến động tài chính bình thường sẽ chấm dứt trong mấy
tháng ; nhưng khủng hoảng của Trung Quốc có thể kéo dài nhiều năm. Là
nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới, Trung Quốc nên là một nguồn hỗ
trợ cho nền kinh tế thế giới đang tuột dốc. Nhưng nếu Trung Quốc không
giải quyết được cuộc khủng hoảng tài chính của mình thì nó lại là một
gánh nặng cho toàn cầu.
Michael Schuman
Nguồn : "Forget the Trade War. China Is Already in Crisis", Bloomberg Businessweek, 17/01/2019.
Lê Hồng Hiệp biên dịch
Nguồn : VNTB, 22/01/2019