Phỏng vấn một đảng viên thoái Đảng (Phần 1) (Phạm Thị Hoài-La Thành)
Sau nhiều thập kỷ cai trị, hệ thống chính trị
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc huấn luyện để các
cán bộ nòng cốt của nó cả đời chỉ bận bịu tự sỉ nhục mình theo cách đó
mà không thể ngẩng đầu lên để nhìn thấy những thứ khác…(La Thành)
Phỏng
vấn này được thực hiện qua thư điện tử, với một người bạn sống ở Việt
Nam, từng cộng tác với tôi ở cả hai giai đoạn làm báo, talawas và pro&contra, bút danh La Thành.
Phạm Thị Hoài:
Tôi còn nhớ, nhiều năm trước khi chúng ta đang làm việc chung cho
talawas, tôi đã rất bất ngờ khi bạn cho biết bạn là đảng viên. Bạn vào
Đảng trong hoàn cảnh nào?
La Thành:
Vào sát thời điểm tốt nghiệp trung học phổ thông, tôi nộp đơn thi vào
một trường đại học kỹ thuật của quân đội, một cơ sở đào tạo sau bậc phổ
thông mà lâu nay vẫn được xếp vào hàng các trường “trọng điểm” của khối
đại học công lập. Đó là những năm cuối cùng của giai đoạn lịch sử được
gọi là “thời bao cấp”, trước thời kỳ Đổi Mới. Sức cuốn hút của hình ảnh
các sinh viên đại học mặc quân phục, sự khác biệt trong thủ tục sơ tuyển
(về sức khỏe, lý lịch và học lực) đã là những yếu tố quyết định sự lựa
chọn đầu đời này của tôi lúc đó, một thiếu niên có tâm hồn lãng mạn,
nhìn cuộc sống chủ yếu qua ô cửa sổ các cuốn tiểu thuyết văn học cổ
điển, báo Thiếu Niên và báo Tiền Phong.
Hai
mươi phần trăm thời lượng đào tạo của khóa học dài 5 năm được dành cho
các môn học về chính trị và quân sự đã ít nhiều nhồi vào đầu óc tôi
những luận điểm chính thống về hệ thống chính trị – xã hội mà tôi đang
sống trong đó. Tôi được biết rằng ở Việt Nam, nơi đã ra đời “nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á”, các lực lượng vũ trang được đặt dưới
sự lãnh đạo trực tiếp – tuyệt đối – về mọi mặt của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Điều này liên quan trực tiếp đến câu khẩu hiệu về mục tiêu
đào tạo của nhà trường, “KỸ SƯ – SĨ QUAN – ĐẢNG VIÊN”, được căng kẻ
khắp nơi trong khuôn viên của trường. Tuy nhiên, kiểu tính cách của tôi
không phù hợp để tôi đạt được trọn vẹn cả ba mục tiêu này vào thời điểm
tôi ra trường.
Tôi trải qua ba đơn vị quân đội trước khi quay trở lại đúng cái alma mater
của mình để làm giảng viên ở một bộ môn khoa học, vào lúc tôi đã đeo
lon đại úy song vẫn chưa có đảng tịch. Chi bộ của bộ môn, mà một nửa
trong số họ vốn là những người thầy cũ của tôi, lập tức cử người theo-dõi, giúp-đỡ để phát-triển-Đảng
cho tôi (các từ in nghiêng là những thuật ngữ rất chuẩn mực của môn
khoa học mà cụ đương kim lãnh tụ số một của đất nước đang là sư phụ).
Đối với họ, việc một giảng viên đại học kiêm một sĩ quan quân đội phải
vào Đảng là chuyện đương nhiên, miễn thảo luận: ít nhất, nó có lợi cho
xu hướng thăng tiến mặc định vào thời điểm đó của tôi, cũng như cho số
liệu thống kê “thành tích phát triển Đảng” của đảng bộ đơn vị.
Tôi
được phân công số giờ giảng nhiều nhất trong bộ môn, cùng một vài công
tác phong trào khác. Cuối năm đó, tôi được bầu làm “chiến sĩ thi đua” và
được giới thiệu để chi bộ làm thủ tục kết nạp vào Đảng.
Phạm Thị Hoài: Nhưng từ nhiều năm nay bạn đã thầm lặng thoái Đảng. Đảng viên có những cách nào để ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam?
La Thành: Về bản chất, sự gia nhập Đảng của mỗi cá nhân là một quá trình đồng thời công nhận lẫn nhau giữa cá nhân đó và tổ chức Đảng, trong khi sự ra khỏi Đảng của một đảng viên là một quá trình ngược lại: sự bất cần và không công nhận của một trong hai bên hoặc cả hai bên với nhau.
La Thành: Về bản chất, sự gia nhập Đảng của mỗi cá nhân là một quá trình đồng thời công nhận lẫn nhau giữa cá nhân đó và tổ chức Đảng, trong khi sự ra khỏi Đảng của một đảng viên là một quá trình ngược lại: sự bất cần và không công nhận của một trong hai bên hoặc cả hai bên với nhau.
Như vậy, một đảng viên có thể ra khỏi Đảng một cách thụ động khi Đảng (được đại diện bởi phân bộ Đảng trực tiếp quản lý) giành quyền chủ động khai trừ
đảng viên ấy ra khỏi Đảng và xóa tên khỏi danh sách đảng viên của phân
bộ, mặc dù đảng viên ấy chưa từng bộc lộ biểu hiện bất cần Đảng. Điều
này thường xảy ra đối với các đảng viên phạm pháp hình sự và bị khởi tố,
hoặc các đảng viên có những vấn đề nghiêm trọng về đạo đức theo các
tiêu chí của Đảng. Hiếm hoi hơn, đó là khi người đảng viên nảy sinh mâu
thuẫn với Đảng trong phạm trù chính trị – tư tưởng, mặc dù chưa hoặc
không có nguyện vọng ra khỏi hàng ngũ Đảng nhưng vẫn bị Đảng chủ động
khai trừ. Một trong các thí dụ nổi tiếng của trường hợp này là sự kiện
tướng Trần Độ bị thu hồi đảng tịch.
Ở chiều ngược lại, một đảng viên có thể ra khỏi Đảng một cách chủ động
khi có ý chí loại bỏ các giá trị – lý luận hoặc thực tiễn, hoặc cả hai –
của Đảng khỏi cuộc sống của mình, bằng cách này hay cách khác. Trong
tình huống này, người đảng viên chủ động bỏ Đảng có hai cách lựa chọn: công khai viết đơn xin ra khỏi Đảng hay tuyên bố từ bỏ đảng tịch một cách chính thức, hoặc lặng lẽ bỏ sinh hoạt đảng.
Phạm Thị Hoài: Cách của bạn như thế nào?
La Thành:
Từ nhiều năm nay, tôi đã bỏ không sinh hoạt đảng. Khi chuyển công tác
khỏi đơn vị, tôi được Ban Tổ chức của đơn vị (tức bộ phận Đảng vụ) viết
phiếu chuyển sinh hoạt đảng, đồng thời giao lại cho tôi bộ hồ sơ đảng
viên của tôi. Tôi mang bộ hồ sơ về nhà và cho vào két sắt. Mọi người nói
đùa rằng làm như thế là “gia nhập quần chúng chui”.
Phạm Thị Hoài: Vì sao bạn chọn cách đó?
La Thành:
Thực ra, lúc đang còn trong quân đội, trong một lần sinh hoạt chi bộ
hàng tháng, tôi đã từng đề xuất khả năng tôi xin ra khỏi Đảng, nhưng
ngay lập tức, các vị “đàn anh” trong chi bộ lúc ấy chặn ngay: “Cậu muốn
ra khỏi Đảng, đi chỗ khác mà ra. Cậu ra ở đây ảnh hưởng đến nhiều
người.” Quả thật đó là một thực tế, vì nếu tôi xin ra khỏi Đảng một cách
chính tắc, năm đó cái chi bộ mà tôi là thành viên chắc chắn sẽ mất danh
hiệu “Chi bộ Trong sạch Vững mạnh”. Một số đảng viên sẽ không được công
nhận các danh hiệu “Chiến sĩ Thi đua” hay “Chiến sĩ Quyết thắng”. “Điểm
thi đua tích lũy” của các đảng viên còn lại trong chi bộ có thể bị ảnh
hưởng; đó là một hình thức số hóa công trạng, sẽ được tham chiếu khi
phân nhà, chia đất, khi xét tặng các loại huân chương, huy chương, kỷ
niệm chương theo niên hạn… Sau nhiều thập kỷ cai trị, hệ thống chính trị
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc huấn luyện để các
cán bộ nòng cốt của nó cả đời chỉ bận bịu tự sỉ nhục mình theo cách đó
mà không thể ngẩng đầu lên để nhìn thấy những thứ khác…
Tóm
lại, tôi lựa chọn phương án “gia nhập quần chúng chui”, một mặt để
không ảnh hưởng tới các đồng nghiệp cũ của tôi, mặt khác vì tôi tự xác
định tôi không phải là một đảng viên thuộc loại “nhân vật của công
chúng”, việc tôi công khai ý nguyện từ bỏ Đảng sẽ không làm xói mòn bao
nhiêu “sức đề kháng” của nó, trừ phi đã bắt đầu xuất hiện một phong trào
bỏ Đảng rầm rộ, mà điều này thì rõ ràng là chưa xảy ra.
Phạm Thị Hoài: Theo bạn ước tính, tỷ lệ đảng viên bỏ Đảng hiện ở mức nào?
La Thành: Như đã phân tích ở trên, cụm từ “bỏ Đảng” thực ra chỉ dành cho các đảng viên có ý chí ra khỏi Đảng một cách chủ động,
khi giành quyền loại bỏ các giá trị lý luận và thực tiễn của Đảng ra
khỏi cuộc sống của mình. Như vậy, đảng viên bỏ Đảng đều ít nhiều là
những nhà bất đồng chính kiến. Họ có thể là các công chức hoặc thành
viên lực lượng vũ trang tự chuyển khỏi khu vực nhà nước vì những lý do
khác nhau, hoặc là một bộ phận trong những người về hưu. Chưa từng có
thống kê chính thức, song tôi cho rằng ở thời điểm hiện nay, con số đảng
viên chủ động bỏ Đảng có thể đến vài chục ngàn, và như vậy mới chỉ vào
khoảng xấp xỉ 1% trong tổng số bốn triệu đảng viên của Đảng.
Phạm Thị Hoài: Bỏ Đảng chắc chắn là việc khó. Khó tới mức nào?
La Thành:
Theo nhìn nhận của tôi, đối với các “nguyên đảng viên” chủ động bỏ
Đảng, việc ly khai các giá trị của Đảng đồng nghĩa với việc tự loại bỏ
các khó khăn về tinh thần ra khỏi cuộc sống của mình. Tôi chưa từng quan
sát thấy đảng viên nào lựa chọn buông bỏ các giá trị của Đảng kèm theo
những mất mát lớn trong đời sống vật chất trước đó của họ.
Phạm Thị Hoài: Còn khoảng cách thực tế giữa việc chia tay Đảng trong tư tưởng và công khai tuyên bố bỏ Đảng?
La Thành:
Khoảng cách đó, theo tôi nghĩ, tỷ lệ thuận với mức độ nổi tiếng của
người đảng viên bất đồng chính kiến, và điều này thường tương đồng với
cấp bậc của người đó trong hệ thống đẳng cấp của Đảng. Đối với các đảng
viên cấp thấp, “chia tay Đảng trong tư tưởng” hay tuyên chiến công khai
với tấm thẻ Đảng không khác nhau nhiều. Trong khi đó, đối với các đảng
viên cao cấp và/hoặc nổi tiếng như Nguyên Ngọc, Chu Hảo, Mạc Văn Trang
hay nghệ sĩ Kim Chi, công khai hành động chia tay đội ngũ Đảng rõ ràng
là có tiếng vang hơn nhiều so với khi họ “áo gấm đi đêm”, một khi truyền
thông và mạng xã hội không thể thờ ơ với động thái này của họ.
Phạm Thị Hoài: Nhưng những đảng viên âm thầm thoái Đảng, họ có thực sự làm giảm sức mạnh của Đảng không?
La Thành: Câu trả lời của tôi là “không”.
Phạm Thị Hoài: Đảng không thực sự coi đó là một nguy cơ đáng kể hay sao?
La Thành:
Đảng số của Đảng Cộng sản Việt Nam, như mọi đảng toàn trị đã từng hoặc
đang tồn tại trên thế giới, là một con số thuần túy hình thức, không có
giá trị đo đếm sức mạnh ý chí hoặc đạo đức của Đảng. Sau hơn nửa thế kỷ
cai trị trong điều kiện toàn trị, Đảng đã hoàn thiện một hệ thống chính
trị thiên về hình thức, với bản chất là quyền lực chỉ tập trung ở bộ
phận trung ương của nó, mà các đảng viên ở bộ phận này hầu như không bao
giờ bỏ Đảng, trừ một vài trường hợp hết sức hiếm hoi không đáng kể. Các
đảng viên tầm trung và tầm thấp hoặc bám vào hệ thống chính trị đó như
các động vật ký sinh, hoặc từ giã hệ thống này vì lý do nhận thức: cả
hai trường hợp đều không ảnh hưởng đến quán tính vận hành của hệ thống.
Hệ thống ấy khó có thể bị sứt mẻ bởi một cộng đồng dân chúng mà tuyệt
đại đa số đã được tẩy não bằng một huyền thoại lịch sử đã được nhào nặn
kỹ càng và hoàn toàn khiếp nhược trước các biểu tượng răn đe.
Nếu
có thể ví Đảng với một cơ thể sống, tôi mường tượng nó như một động vật
cấp thấp, là loài rắn chẳng hạn. Mà động vật cấp thấp thì khó chết chỉ
vì 1% cơ thể đang ung thối hay hoại tử, không phải bộ phận đầu não của
nó.
8/11/2018
Theo Trẻ Online
(Còn tiếp một kỳ)