Luật An ninh mạng có ảnh hưởng gì giới nhân quyền? (Phạm Chí Dũng)
Ba quan chức được xác định là có vai trò chủ xướng trong việc soạn
thảo và đệ trình Dự Luật An ninh mạng là Trần Đại Quang - cựu bộ trưởng
công an, Tô Lâm - đương kim bộ trưởng công an và Hoàng Phước Thuận - Cục
trưởng Cục An ninh mạng của Bộ Công an.
Ai là ‘nhà đầu tư chiến lược’ của Dự Luật An ninh mạng?
Dù bị chỉ trích dữ dội là nhằm bóp nghẹt tự do ngôn luận trên mạng
Internet, nhưng Dự Luật An ninh mạng không bị chửi rủa đến mức ‘luật bán
nước’ như Dự Luật Đặc khu, không trở thành lý do chính cho cuộc tổng
biểu tình ngày Mười tháng Sáu năm 2018, và do đó đã được một quốc hội
‘đảng cử’ mau chóng cúi đầu bấm nút thuận chỉ 2 ngày sau khi nổ ra cuộc
tổng biểu tình toàn quốc phản đối Dự Luật Đặc khu.
Cũng khác với các ‘nhà đầu tư chiến lược’ mà đương nhiên sẽ hưởng lợi
một cách phủ phê nếu Dự Luật Đặc khu được thông qua, Luật An ninh mạng
lại mang đến quyền lực và lợi ích cho một nhóm ‘nhà đầu tư chiến lược’
rất đặc thù khác: giới công an mạng.
Ba quan chức được xác định là có vai trò chủ xướng trong việc soạn
thảo và đệ trình Dự Luật An ninh mạng là Trần Đại Quang - cựu bộ trưởng
công an, Tô Lâm - đương kim bộ trưởng công an và Hoàng Phước Thuận - Cục
trưởng Cục An ninh mạng của Bộ Công an.
‘Cải thiện thu nhập’
Cứ chiếu theo đánh giá của nhiều nhà phân tích chính trị, giới chuyên
gia và nhà báo, người ta còn thấy ẩn trong Dự Luật An ninh mạng là một
núi điều kiện về cơ chế ‘xin - cho’ áp đặt đối với các chủ thể kinh
doanh mạng Internet của Việt Nam và nước ngoài. Mỗi điều kiện là một
giấy phép, và ứng với những điều kiện lớn thì lại đẻ ra hàng đống giấy
phép con nằm trong những giấy phép lớn…
Chưa kể phần ‘hậu kiểm’ - tức cơ chế mà Luật An ninh mạng cho phép
các quan chức công an mạng có quyền kiểm tra hoạt động của những doanh
nghiệp và cơ sở kinh doanh mạng Internet sau khi cấp phép, theo cách
‘hành là chính’.
Một cách nào đó, có thể xem việc Quốc hội thông qua ‘thành công’ Luật
An ninh mạng là cơ hội trời cho để giới công an mạng được ‘cải thiện
thu nhập’, hoặc với cách gọi khác hơn đôi chút là ‘cải thiện kinh tế
công an’ để phần nào tương xứng với ‘kinh tế quốc phòng’ của nhiều doanh
nghiệp quân đội mà đã ‘đi lên từ đất’.
Nhưng lẽ dĩ nhiên, mục đích ẩn trên không thể lộ ra, mà phải được che đậy bằng lý cớ ‘an ninh quốc gia’.
Vô số báo cáo của ngành công an đã có thể thổi phồng nguy cơ an ninh
trên mạng xã hội, trong một đất nước đầy rẫy ‘thế lực thù địch’ và tất
nhiên không thể bỏ quan vai trò của đảng Việt Tân. Đặc biệt trong bối
cảnh diễn ra các phong trào phản đối chặt hạ cây xanh vào năm 2015, phản
đối điều 60 của Luật Lao động cũng vào năm 2015, phản đối thảm họa ô
nhiễm của Formosa vào năm 2016, vụ khủng hoảng Đồng Tâm năm 2017, và mới
nhất là cuộc tổng biểu tình phản đối Dự Luật Đặc khu vào ngày Mười
tháng Sáu năm 2018.
Học tập Trung Quốc!
Vào năm 2017, sau một chiến dịch “vừa răn đe vừa thuyết phục” đối với
Google, Facebook nhưng có vẻ chẳng mang lại kết quả nào đáng kể, chính
quyền Việt Nam lại xoay sang hướng… học tập kinh nghiệm Trung Quốc.
Luật An ninh mạng của Trung Quốc được thông qua vào tháng
11/2016 và có hiệu lực kể từ ngày 1/6/2017. Cùng với việc
siết chặt kiểm soát báo chí và bình luận, luật An ninh mạng
còn khiến cho tự do không gian mạng của Trung Quốc càng trở nên
hà khắc hơn bao giờ hết.
“Kinh nghiệm Trung Quốc” là việc quốc gia độc trị này đã bắt Google
phải đăng ký máy chủ quản lý dữ liệu với ngành công an và quản lý thông
tin và do đó có thể kiểm soát được toàn bộ nội dung trên mạng xã hội.
Trong suốt một thời gian khá dài, giới quản lý của Trung Quốc đã o ép
mạng xã hội không mấy kém thua việc họ đàn áp các nhà hoạt động nhân
quyền tại đất nước này. “Chịu hết nổi”, đến tháng 3/2010, Google đã phải
chính thức rút khỏi thị trường Trung Quốc.
Đầu năm 2018, tổ chức nhân quyền quốc tế Freedom House bầu chọn
Trung Quốc là “kẻ lạm dụng tồi tệ nhất” đối với quyền tự do
trên Internet. Điều đáng nói là liên tiếp trong 3 năm liền trong
suốt tiến trình từ khi luật An ninh mạng của nước này được bàn
thảo, được thông qua và bắt đầu có hiệu lực, Trung Quốc đều
được bầu chọn danh hiệu này.
Vậy hậu quả ghê gớm nào sẽ xảy ra nếu các hãng Gooogle, Facebook…
đồng loạt rút khỏi Việt Nam nếu họ bị Luật An ninh mạng siết đến mức
không thể thở được?
Chính một con số thống kê của Bộ Thông Tin-Truyền Thông Việt Nam đã
cho biết có tới hơn 80% người Việt dùng mạng xã hội. Cơ chế cấm cản mạng
xã hội ở Việt Nam sẽ có thể ngay lập tức dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống
thông tin trong khối doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, khiến GDP – vốn đang quá èo uột – sẽ có thể thiệt hại từ
1,5 đến 2,5% tổng sản lượng quốc gia.
Còn giới đấu tranh nhân quyền?
Một nhà báo độc lập trả lời đài RFA Việt ngữ: “Chúng tôi mỉm cười
bởi vì có luật an ninh mạng hay không có luật an ninh mạng thì cũng
thế. Đối với chúng tôi, những người bất đồng thì chúng tôi chịu áp chế
quen rồi, sách nhiễu quen rồi, gò bó quen rồi, và trước khi có luật an
ninh mạng, thì họ đã dùng những điều 88, 258, là tuyên truyền chống chế
độ, hay là lợi dụng quyền tự do dân chủ, và họ đã truy tố và bỏ tù nhiều
người bất đồng chính kiến, không cần có luật an ninh mạng.”
Đài RFA Việt ngữ cũng cho biết “tất cả những nhà hoạt động xã hội bất
đồng chính kiến mà chúng tôi có dịp tiếp xúc sau khi đạo luật an ninh
mạng được thông qua đều cho rằng đạo luật đó không ảnh hưởng gì đến tình
trạng của họ hiện nay”.
Lý do đơn giản là từ khi chưa có hơi hám nào về Dự Luật An ninh mạng,
chính quyền và công an Việt Nam đã ‘vận dụng’ 2 điều luật cực kỳ mơ hồ
trong Bộ Luật Hình sự là Điều 88 về tội ‘tuyên truyền chống nhà nước’ và
Điều 258 về ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ’ để bắt bớ và bỏ tù nhiều
người bất đồng chính kiến. các blogger có tiếng trên không gian mạng
Việt Nam như bà Trần Thị Nga, bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, hay Mẹ Nấm,… đều
đang bị ở tù vì tội tuyên truyền chống nhà nước. Chính phủ Việt Nam
cũng vừa tống xuất, nhưng không công bố, trường hợp luật sư Nguyễn Văn
Đài của Hội Anh em dân chủ sang Đức, ông Đài cũng đã từng bị ghép tội
tuyên truyền chống nhà nước khi ông viết bài trên mạng xã hội.
Vì sao chính quyền không thể siết mạng xã hội?
Cũng có thêm một nguồn cơn rất “tế nhị” mà sẽ khiến Luật An ninh mạng
- dù có hiệu lực ngay từ đầu năm 2019 và được tuyên truyền ồn ào về
tính ‘khủng bố’ của nó - không thể hay ‘không được phép’ phát huy cái
tác dụng răn đe cấm cản cực đoan của nó: từ năm 2012, ở Việt Nam đã
chính thức diễn ra cuộc chiến nội bộ đảng với trang mạng xã hội có tên
Quan Làm Báo, và do đó cũng chính thức hình thành ‘nhu cầu đấu đá nội bộ
thông qua mạng xã hội’.
Đến cuối năm 2014, một trang mạng còn ghê gớm hơn là Chân Dung Quyền
Lực đã hiện hình và khuynh đảo cả chính trường. Trước đại hội 12 của
đảng cầm quyền, một số trang mạng xã hội cũng làm mưa làm gió với những
tin tức thuộc loại “Tối Mật,” Tuyệt Mật” của đảng và chính quyền. Từ đó
đến nay, ngày càng nhiều trang mạng xã hội nặc danh được tung ra với
ngồn ngộn thông tin phanh phui giới quan chức trong nội bộ về nạn tham
nhũng, tài sản khủng, bồ nhí con riêng, thủ đoạn chạy chức chạy quyền…
Đó là nguồn cơn vì sao mà Nghị định số 72 được ban hành từ năm 2013
về quản lý mạng Internet, và sau đó là Luật An toàn thông tin được ban
hành nhưng đã chẳng có mấy tác dụng để ngăn chặn mạng xã hội.
Trong khi đó, nhu cầu đấu đá nội bộ quá hóc hiểm và đậm tính sống mái lại đang có triển vọng tăng vọt trong năm 2018 này.
Làm thế nào để cái nhu cầu đấu đá nội bộ quá ư lý thú ấy có thể tồn
tại trong thời gian tới, đặc biệt trong cuộc chiến sát phạt thâu tóm
giữa các nhóm quyền lực mới - lợi ích mới đối với các nhóm quyền lực cũ -
lợi ích cũ, nếu mạng xã hội bị chính các cơ quan quản lý Việt Nam siết
chặt, còn Facebook và Google bỏ chạy khỏi Việt Nam?
VOA