Chúng ta đã và đang thực sự mất nước (Phạm Cao Dương)
Nói
cách khác đó là chiến lược dùng quyền lực mềm thọc sâu vào lãnh thổ
Việt Nam để nhẹ ra là đưa Việt Nam đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào Trung
Quốc, còn nặng ra là chiếm luôn cả nước.Đến lúc đó thì Hoàng Sa, Trường
Sa và Đường Lưỡi Bò đương nhiên sẽ trở thành biển đảo của Trung Quốc.
Ảnh
thuyết trình đoàn, từ trái sang phải : giáo sư Trần Lam Giang, giáo sư
Nguyễn Xuân Vinh, giáo sư Lưu Trung Khảo, giáo sư Phạm Cao Dương và giáo
sư Trần Huy Bích tại Little Saigon, California, ngày 14/07/2013.
Nhân vụ Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc :
Chúng ta đã và đang thực sự mất nước
Trước khi vào đề :
Người
Tàu dù là Trung Quốc hay Tàu Cộng, Tàu thời Nhà Hán, Nhà
Đường, Nhà Tống, Nhà Minh…, Tàu ở thời nào đi chăng nữa cũng
vẫn là người Tàu, vẫn mãi mãi là tham lam, tàn bạo và hiểm
độc. Đó là điều đầu tiên chúng ta cần ghi nhớ trước khi bàn
về vấn đề này. Chuyện người Tàu thường xuyên tìm cách xâm
chiếm Việt Nam với những mưu toan mỗi ngày một tinh vi thâm độc
hơn trong lịch sử hiện đại là chuyện thường trực xảy ra từ lâu
rồi nhưng nhiều người vì dễ tính, dễ quên nên chỉ nhớ lõm
bõm. Vì vậy tác giả xin được kính gửi tới bạn đọc một bài
viết không lâu trước đây của tác giả để bạn đọc có dịp nhớ
lại cho chính xác, đầy đủ hơn.
Đúng
ra đây là phần tóm lược bài thuyết trình tác giả trình bày tại
buổi hội thảo mang chủ đề "38 năm nhìn lại : Hiện tình và tương lai Việt
Nam" do Hội Ái Hữu Bưởi – Chu Văn An Nam California tổ chức ngày 14
tháng 7 năm 2013 tại Coastline Community College, Thành Phố Westminster,
California, Hoa Kỳ.
Bài
viết tuy được thực hiện từ 5 năm trước, từ đó đến nay nhiều
biến cố quan trọng đã xảy ra, nhưng những gì được nêu lên vẫn
còn nguyên những giá trị căn bản liên quan đến nguổn gốc sâu xa
của vấn đề, của nó, đặc biệt là tham vọng và chủ trương bành
trướng không bao giờ thay đổi của người Tàu dù là Tàu nào đi
chăng nữa và như tác giả kết luận : Chính nghĩa của Người
Việt quốc gia ngay từ những ngày đầu, từ thời Chính phủ Trần
Trọng Kim hồi năm 1945, xuyên qua Quốc gia Vìệt Nam của Quốc
trưởng Bảo Đại thời trước năm 1954, rồi Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng
Hòa ở Miền Nam luôn luôn là đúng. Sự toàn vẹn lãnh thổ đã
luôn luôn được coi là trọng và được nỗ lực bảo toàn.Lịch sử
đã chứng minh điều này.
"Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di"
Lời Vua Lê Thánh Tông dụ bọn Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm 1473
"Chúng
ta phải giành cho được Đông Nam Châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam,
Thái Lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam
Châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém
cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông-nam Châu Á, chúng ta có
thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ
có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt
gió tây".
"Chúng ta phải chinh phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất"
Mao Trạch Đông tuyên bố trước Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1959
Nói
về hiện tình đất nước ở vào thời điểm 2013 mà không nói tới tham vọng
và cuộc xâm lăng của người Tàu, cuộc xâm lăng mới nhất, đang xảy ra trên
lãnh thổ của nước ta là một điều vô cùng thiếu sót. Vì vậy thay vì góp
thêm nhận định về hiện trạng kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục ở trong
nước hiện tại, tôi xin phép Ban Tổ Chức và toàn thể quý vị cho tôi được
nói đôi chút về đề tài nóng bỏng này, đề tài tôi tạm gọi là "Chúng ta đã
và đang thực sự mất nước".
Vì
thời giờ có hạn, tôi chỉ xin nói ra những điểm chính. Sau buổi hội thảo
ngày hôm nay tôi sẽ xin ghi lại những chi tiết đầy đủ hơn và sẽ xin gửi
tới quý vị sau. Cũng vì thì giờ có hạn, tôi sẽ không nói tới hay đúng
ra không nói nhiều về Biển Đông với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và
Đường Lưỡi Bò của Trung Quốc và những gì đế quốc mới này đã và đang làm ở
trong vùng biển này như thành lập Thành Phố Tam Sa, thiết lập các cơ
cấu hành chánh, chánh trị, quân sự, đưa các tàu hải tuần xuống đe dọa
các quốc gia liên hệ chặn bắt, các tàu đánh cá của ngư dân, đặc biệt là
ngư dân Việt Nam… Lý do là vì tất cả đã trở thành đề tài thời sự thế
giới, được nói tới gần như hàng tuần và luôn cả hàng ngày trên các đài
phát thanh, các đài truyền hình quốc tế cũng như các đài phát thanh, đài
truyền hình của người Việt, trên các trang mạng từ nhiều năm nay và
đương nhiên trong những buổi gặp gỡ giữa anh em, bạn bè chúng ta.
Tôi
cũng không nói hay nói rất ít về bản "Tuyên cáo về việc Nhà cầm quyền
Trung Quốc liên tục có những hành động gây hấn, xâm phạm nghiêm trọng
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam trên Biển Đông", ngày 25 tháng 6
năm 2011 và bản "Kiến nghị về Bảo vệ và phát triển đất nước trong tình
hình hiện nay" của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng ở trong nước gửi Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ chính trị Ban chấp
hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ngày 10 tháng 7 cùng năm và nhiều
kiến nghị khác mà mọi người đều biết trước là sẽ không bao giờ được trả
lời hay chỉ được trả lời quanh co hay gián tiếp.
Tôi
cũng không nói hay nói rất ít về lối trả lời gián tiếp các nhà trí thức
kể trên của Đảng cộng sản Việt Nam xuyên qua một bài báo đăng trên tờ
Đại Đoàn Kết theo đó những người cầm quyền ở Việt Nam hiện tại đã tỏ ra
vô cùng lúng túng trước câu hỏi về bản công hàm của Phạm Văn Đồng nhân
danh Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gửi Chu Ân Lai, Chủ tịch Quốc
Vụ Viện nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đây
là lần đầu tiên những người cầm đầu Đảng cộng sản Việt Nam, đã thừa nhận
là họ đã lựa chọn nhường các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung
Quốc để đổi lấy sự giúp đỡ của Trung Quốc trong cuộc xâm chiếm Miền Nam
bằng vũ lực của họ sau đó. Đây cũng là lần đầu tiên họ, những người cầm
đầu Đảng cộng sản Việt Nam, công nhận các chính phủ Quốc gia Việt Nam
thời Quốc trưởng Bảo Đại và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa là những chính
phủ hợp pháp có trách vụ quản trị các quần đảo này theo Hiệp Định Genève
cũng như những nỗ lực không thể chối cãi mà những chính phủ quốc gia
này đã làm để bảo vệ các quần đảo này trong suốt thời gian các chính phủ
này tồn tại.
Lý
do chính yếu khiến tôi không nói hay chỉ nói rất ít về những sự kiện
kể trên là vì tất cả hiện thời đang xảy ra ở Biển Đông và các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa mới chỉ là diện, là bề ngoài, là mới chỉ là bắt
đầu. Tất cả rồi cũng sẽ được giữ nguyên trạng trong một thời gian dài và
dù muốn hay không Hoàng Sa cũng đã mất rồi, còn Trường Sa thì cũng mất
nhiều phần, còn nhiều thế hệ nữa Việt Nam mới có thể lấy lại được hay có
cơ hội lấy lại được. Trung Hoa cộng sản trong mọi hoàn cảnh cũng đã
chiếm được và giữ được những phần quan trọng kể từ sau khi họ chiếm
Hoàng Sa từ trong tay Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng Giêng năm 1974 trong
sự im lặng, đồng lõa của chính quyền cộng sản Hà Nội. Cái giá để cho
Đảng cộng sản Việt Nam xâm chiếm miền Nam và thống nhất đất nước ta bằng
võ lực phải nói là quá đắt cho dân tộc Việt Nam và cho chính họ.
Hoàng
Sa, Trường Sa hay rộng hơn Biển Đông chỉ là những gì nổi bật bề ngoài,
là cái diện ai cũng có thể thấy được trong tiến trình mất nước của dân
tộc Việt Nam đầu Thế Kỷ 21 này. Vậy thì cái điểm nằm ở đâu ? Thưa quí
vị, nó nằm ngay trên đất liền, trên lãnh thổ của chính quốc Việt Nam. Nó
nằm rải rác ở khắp lãnh thổ nước ta chứ không riêng ở biên giới phía
bắc, đành rằng ở biên giới phía bắc, người ta đã ghi nhận những sự nhổ
và lui cột mốc, sự mất ba phần tư Thác Bản Giốc, những sự chiếm giữ các
cao điểm có tính cách chiến lược từ trước và sau trận chiến 1979 giữa
hai đảng cộng sản Á Châu và có thể từ xa hơn nữa, từ đầu thập niên 1950,
khi cộng sản Việt Nam mở cửa biên giới phía bắc để nhận viện trợ của
Trung Quốc nhằm tiếp tục cuộc chiến tranh chống Pháp và gián tiếp chống
lại chính quyền Quốc gia Việt Nam lúc đó đã được thành lập bởi cựu hoàng
Bảo Đại. Những thắc mắc về sự mất mát này cho tới nay vẫn chưa được
hoàn toàn giải tỏa dầu cho đã được nhiều người đòi hỏi. Tôi sẽ nói thêm
ở phần cuối về vấn đề này.
Có
điều là đến giờ thì hai bên đã ký kết những thỏa ước và những cột mốc
mới đã khởi sự được "cắm" rồi. Những điểm này tuy nhiên chỉ là ở dọc
vùng biên giới. Quan trọng hơn và nguy hiểm hơn, bức thiết hơn là những
điểm, mà không phải là điểm hiểu theo ý nghĩa đen của danh từ, nằm sâu
ngay trong lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam, dưới quyền quản lý của chính
quyền cộng sản hiện tại nhưng vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền
này. Những điểm vừa cố định, nằm nguyên một chỗ, vừa di động khắp nơi
trên lãnh thổ, điển hình là những mỏ bauxite trên cao nguyên, những khu
rừng đầu nguồn nằm ở cửa ngõ của những vùng biên giới Việt-Trung và
Lào-Việt, những khu vực trúng thầu, những địa điểm thu mua các nông sản,
những vùng nông dân bỏ trồng lúa, trồng khoai, những trại nuôi cá, điển
hình là trại nằm không xa quân cảng Cam Ranh là bao nhiêu mà các nhà
cầm quyền địa phương sau cả gần chục năm không hề biết, những khu phố
kiểu Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương… Tất cả đã trở thành những "thực dân
địa", những "colonies" của người Tầu ngay trong lòng của lãnh thổ Việt
Nam, nơi những ủy ban nhân dân vẫn còn làm chủ.
Nói
cách khác, theo lời của các tác giả của Bản "Kiến nghị về bảo vệ và
phát triển đất nước…" ngày 10 tháng 7 năm 2011 mà tôi đã dẫn trên đây
thì "…mặt trận nguy hiểm nhất đối với nuớc ta mà Trung Quốc muốn dồn
quyền lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là : thâm nhập, lũng đoạn mọi
mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa của nước ta. Đó là mặt trận vừa
uy hiếp, vừa dụ dỗ nước ta nhân danh cùng nhau gìn giữ ý thức hệ xã hội
chủ nghĩa, gây chia rẽ giữa nhân dân ta và chế độ chính trị của đất
nước, vừa lũng đoạn nội bộ lãnh đạo nước ta, làm suy yếu khối đại đoàn
kết thống nhất của dân tộc ta, làm giảm sút khả năng gìn giữ an ninh và
quốc phòng của nước ta. Đánh thắng nước ta trên mặt trận nguy hiểm nhất
này, Trung Quốc sẽ đánh thắng tất cả".
Nói
cách khác đó là chiến lược dùng quyền lực mềm thọc sâu vào lãnh thổ
Việt Nam để nhẹ ra là đưa Việt Nam đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào Trung
Quốc, còn nặng ra là chiếm luôn cả nước.Đến lúc đó thì Hoàng Sa, Trường
Sa và Đường Lưỡi Bò đương nhiên sẽ trở thành biển đảo của Trung Quốc.
Hãy
tưởng tượng ngay trên Cao Nguyên Miền Nam, địa điểm chiến lược quan
trọng nhất đã chi phối toàn bộ an ninh của miền nam Việt Nam và sự thống
nhất của lãnh thổ quốc gia trong quá khứ, trong một khu vực rộng lớn,
nằm ngoài sự kiểm soát của cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa
phương của người Việt, là một khu vực dành riêng cho người Tầu, không
ai được nhòm ngó, không ai được ra vào. Họ được tự do mang người của họ
vô, mang người của họ ra, được chở đồ của họ vô, chở đồ của họ ra một
cách tự do, thong thả không qua một sự kiểm soát nào. Những người này là
những người nào ? những đồ này là những đồ gì ? Làm sao biết được, ai
mà biết được… cho đến biến cố tầy trời nổ ra ?
Cũng
vậy, ở những khu rừng đầu nguồn và ở những địa điểm của những công
trình xây cất có tính cách căn bản nhằm cung cấp điện năng, khoáng sản,
dầu khí…những lãnh vực thuộc loại tối quan trọng liên hệ tới an ninh của
quốc gia.nhìn vào con số 90% các "gói thầu" thuộc loại này được mở ra ở
trong nuớc đã lọt vào tay các nhà thầu Trung Quốc. Nhiều gói lên tới
hàng tỷ Mỹ kim với những món tiền lót tay không phải là nhỏ, từ 10% đến
15% tiền thầu. Hậu quả là những công trình do họ thực hiện phần lớn có
phẩm chất kém, thời gian thi công kéo dài trong khi các nhà thầu Việt
Nam, vì không đủ vốn, không đủ thế lực chỉ còn bất lực, đứng bên lề các
đại công trường trên đất nước mình.
Nhưng
nguy hiểm hơn hết vẫn là nạn nhân công người Tầu do chính các chủ thầu
người nước họ mang sang để lao động thay vì các nhân công bản xứ. Ở khắp
nơi, từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Đồ Sơn đến Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ
An, đến Đà Nẵng rồi vô tới Bình Dương và Cà Mau… chỗ nào có nhân công
người Tầu đều có những khu cư xá riêng cho họ, kèm theo là các chợ búa,
các cửa hàng, các trung tâm dịch vụ, các nhà nghỉ, các quán cà phê,
karoke mang chữ Tàu… để phục vụ cho họ. Người Việt Nam không riêng chỉ
có thể đứng nhìn mà còn trở thành nạn nhân của tất cả những tệ hại do họ
gây ra như ăn uống, nhậu say không trả tiền, phá phách, tiểu bậy, trêu
gái, đánh lộn, kéo hàng trăm người đánh hội đồng người bản xứ khi có
tranh chấp…
Những
người Tầu được gửi sang Việt Nam để lao động kể trên thuộc thành phần
nào ? Họ có phải thuần túy là dân lao động có tay nghề hay là những quân
nhân thuộc những đơn vị đặc biệt, những đặc công tình báo được gửi sang
để thực hiện một mưu đồ hiểm độc lâu dài hơn ? Hiện tại chưa có gì là
rõ ràng mà chỉ là ức đoán. Có điều là họ hiện diện ở khắp nơi trên toàn
quốc Việt Nam mà các nhà cầm quyền từ trung ương đến địa phương đều đã
không kiểm soát được hay làm lơ không kiểm soát. Mặt khác, nếu nhìn vào
những gì Trung Quốc đã làm ở Tân Cương, ở Mông Cổ và luôn cả ở Tây Tạng
trong thời gian gần đây thì không ai là không khỏi lo ngại. Tỷ lệ số
người gốc Hán ở các xứ này đã tăng gia dáng kể và sự cạnh tranh cũng như
kỳ thị với sự thiên vị của nhà cầm quyền đã gây nên những cuộc bạo loạn
trầm trọng. Liệu Việt Nam có thể tránh khỏi tình trạng đang xảy ra cho
các nước này hay không ? Ta không được biết, nhưng chỉ nhìn vào miền cao
nguyên với các công trình khai thác bauxite, với lượng nhân công gốc
Tầu đông đảo, phần lớn là những thanh niên chưa có hay không có vợ, hậu
quả của nạn giới hạn hai con của chính quyền Trung Quốc người ta không
thể không lo ngại cho tương lai của miền đất chiến lược quan trọng bậc
nhất của đất nước Việt Nam này, miền đất mà Hoàng đế Bảo Đại coi trọng
đặc biệt với danh xưng Hoàng Triều Cương Thổ. Những thanh niên này sẽ
lấy các thiếu nữ Thượng, sẽ sinh con đẻ cái và tất cả sẽ trở thành công
dân xứ Thượng. Nếu điều này xảy ra thì rất là êm thắm, chỉ trong vòng
hai thế hệ hay ba chục năm, chưa tới năm mươi năm, thời gian thuê các
rừng đầu nguồn với giá rẻ mạt, những người Thượng gốc Tàu sẽ trở thành
chủ nhân của các cao nguyên và qua một cuộc đầu phiếu êm ả và hợp pháp,
miền đất rộng lớn, nhiều tài nguyên này sẽ trở thành của Tầu và biết đâu
qua một tiến trình tương tự toàn bộ cả nước Việt Nam sẽ trở thành một
tỉnh mới của nước Tầu, tỉnh Quảng Nam rộng trên ba trăm ngàn cây số
vuông hay hơn nữa nếu bao gồm cả hai nước Lào và Căm bốt, sau hai tỉnh
Quảng Đông, Quảng Tây, biên giới phía nam nước Tầu sẽ được mở rộng tới
Vịnh Thái Lan về phía nam và về phía tây, tới bờ sông Cửu Long. Đó chính
là ước mơ của những người tự nhận là Đại Hán mà suốt một ngàn năm vừa
qua họ không đạt được.
Điều
này không phải là không thể đến cho dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào và
dân tộc Căm-pu-chia trong nửa thế kỷ tới. Tất cả sẽ có thể xảy ra một
cách bất ngờ "trước khi người lính của chúng ta được quyền nổ súng" nói
theo lời của một tướng lãnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong một
đoạn video được phổ biến rất rộng rãi và trong một thời gian dài trước
đây. Chỉ tiếc là tính cách chính xác của đoạn video này cho tới nay chưa
được phối kiểm. Vị tướng lãnh này là Trung tướng Phạm Văn Di, Chính ủy
Quân Đoàn 7 của quân đội này.
Những
gì tôi kể ra trên đây chỉ là những gì dễ thấy và được nhiều người thấy.
Còn có nhiều hiện tượng khác tiềm ẩn hơn, thâm độc hơn do người Tàu cố ý
gây ra như nạn hàng hóa rẻ tiền, thiếu phẩm chất của họ tràn ngập Việt
Nam trong đó có những hàng độc hại, những thực phẩm có chứa các hóa chất
gây bệnh chết người hay làm hại cho sức khoẻ cho loài người nói chung
mà ảnh hưởng sẽ kéo dài trong nhiều thế hệ. Việc người Tàu xây hàng loạt
nhiều đập trên thượng nguồn sông Cửu Long và sông Hồng Hà đe dọa sự an
toàn và phong phú của các đồng bằng Châu thổ của các sông này, từ đó đe
dọa cuộc sống của nhiều chục triệu người dân ở đây cũng là những hiện
tượng người ta cần chú ý. Chưa hết, chuyện Trung Quốc tung tiền ra và
đứng sau hai nước ở phía tây Việt Nam là Căm Bốt và Lào cũng đã và chắc
chắn sẽ còn gây ra rất nhiều khó khăn cho Việt Nam mà những gì Căm Bốt
đã làm trong Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN vừa qua là một bằng cớ, y hệt
những gì cộng sản Bắc Việt đã gây ra cho Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc
chiến tranh vừa qua.
Trên đây mới chỉ là hiểm họa do người Tàu từ phương bắc đem tới.
Trên đây mới chỉ là hiểm họa do người Tàu từ phương bắc đem tới.
Còn
có những hiểm họa khác do chính những người lãnh đạo ở Việt Nam hiện
tại vì tham lam, vì trình độ hiểu biết kém cỏi, vì kiêu căng, vì mang
bệnh thành tích… đã và đang gây ra cho chính dân tộc mình. Tôi muốn nói
tới việc xây dựng bừa bãi và cẩu thả các đập thủy điện ở khắp nơi mà
Sông Tranh 2 chỉ là một trường hợp điển hình. Nguy hiểm hơn nữa là việc
xây dựng các nhà máy phát điện hạch tâm, khởi đầu là ở Phan Rang, bất
chấp những kinh nghiệm khủng khiếp của người Nga ở Chernobyl, người Nhật
ở Fukushima hay những sự thận trọng của người Pháp, người Đức, người Mỹ
khi những người này quyết định cho đóng cửa hay ngưng hoạt động các lò
điện này ở nước họ.
Nga,
Nhật, Mỹ, Pháp, Đức… là những nước giàu có, tiền bạc nhiều, lại có
những nền khoa học và kỹ nghệ cao, những chuyên viên giỏi, những người
thợ có kinh nghiệm và vững tay nghề mà còn thận trọng tối đa như vậy,
còn Việt Nam mình thì mặc dầu còn kém cỏi về đủ mọi mặt nhưng đã bất
chấp tất cả. Người ta đã không đếm xỉa gì đến sự cảnh cáo của dư luận
quốc tế cũng như quốc nội, Giáo sư Phạm Duy Hiển ở trong nước, Giáo sư
Nguyễn Khắc Nhẫn ở bên Pháp, những chuyên viên thượng thặng của người
Việt đã hết lời can ngăn và đã viết nhiều bài điều trần với những lời lẽ
vô cùng thống thiết nhưng không ai để mắt, để tai tới… cho đến khi đại
họa xảy ra thì mọi sự đã quá muộn. Nên nhớ là với Fukushima, người Nhật
chỉ riêng để làm sạch miền biển liên hệ đã phải bỏ ra nhiều tiền bạc,
công sức và dự trù sẽ phải để ra bốn mươi năm mới thực hiện nổi.
Tham
nhũng và nhất là bệnh thành tích phải chăng là nguồn gốc của đại nạn
này ? Việt Nam phải là nhất, là cái gì cũng có, nhất là ở thời đại Hồ
Chí Minh, Đỉnh cao của trí tuệ loài người. Cuối cùng chỉ tội nghiệp cho
người Chàm vì địa điểm thiết lập những nhà máy này chỉ cách Tháp Chàm có
năm cây số. Nếu chuyện gì xảy ra, con số hơn một trăm ngàn người còn
sót lại của một dân tộc đã một thời hùng cứ ở miền trung và miền nam
Trung Phần Việt Nam, có thời đã đánh bại người Việt, tràn ngập kinh đô
Thăng Long, với một nền văn hóa giàu về hình tượng, nơi xuất thân của
nhiều ca nhạc sĩ gốc Chàm sẽ một lần nữa bị tiêu diệt và lần này
chắc chắn là lần chót. Nên biết thêm là nhà cầm quyền ở Việt Nam hiện dự
trù sẽ thiết lập tổng cộng từ 8 đến 10 nhà máy điện hạch tâm, phần lớn
là ở miền Trung mà Phan Rang chỉ là khởi đầu với 2 nhà, mỗi nhà 2 lò.
Tất cả đều là mua của Nhật, Nga và luôn cả Đại Hàn sau các cuộc thăm
viếng của các nhà lãnh đạo Đảng và chính phủ. Họ viện cớ là các nhà sản
xuất đều nói là các lò họ làm là an toàn một trăm phần trăm nhưng ai mà
tin được những kẻ ở giữa ăn huê hồng từ những hợp đồng tính từ 3 tỷ, 5
tỷ, 10 tỷ Mỹ Kim trở lên. Nếu chẳng may những vụ rò rỉ hay phát nổ
của các lò xảy ra như ở Chernobyl hay Fukushima xảy ra thì một phần ba
dân số cả nước, phần ba dân số bị coi là có quê hương "đất mặn đồng
chua", là "đất cày lên sỏi đá", là "nghèo lắm ai ơi" với "mùa đông thiếu
áo, hè thời thiếu ăn", nơi "Trời làm cơn lụt mỗi năm, khiến đau thương
lan tràn, ngập Thuận An…", bây giờ lại bị đe dọa có thêm một đại nạn mới
do chính các nhà lãnh đạo của nước mình gây ra treo sẵn trên đầu.
Trên
đây chỉ là một số những gì đã và đang xảy ra trên đất nước Việt Nam của
chúng ta mà mọi nguời ít nhiều còn quan tâm tới quê hương của mình, của
ông cha mình đều nhận thấy. Còn rất nhiều chuyện khác lớn hơn, quan
trọng hơn và có tính cách chiến lược hơn như sự lệ thuộc về chính trị,
về kinh tế và luôn cả về văn hóa của Việt Nam vào Trung Quốc, nhất là
việc cấm đoán người dân không được tỏ thái độ dù cho chỉ là để bày tỏ
lòng yêu nước của mình, giam cầm, bắt bớ hành hạ, không cho họ biết tới
những gì đã thực sự xảy ra liên hệ tới sự thịnh suy, tồn vong của quê
hương và dân tộc họ. Đa số người dân đều mù tịt và vì mù tịt nên đa số
đều dửng dưng, nếu không nói là vô cảm. Nhiều người đã ví giai đoạn mất
nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp
hối với cái chết từ bàn chân đã lên tới đầu gối và đang từ từ lên dần
cho đến khi miếng bông đặt trên mũi đương sự không còn chuyển động nữa.
Câu
hỏi được đặt ra là những người đang lãnh đạo đất nước ta hiện tại có
biết rằng, như một truyền thống ngàn đời, Đảng cộng sản Trung Quốc hay
ít ra là những người lãnh đạo của đảng này ngay từ những ngày đầu đã
nuôi mộng làm chủ thiên hạ giống như Tần Thủy Hoàng ngày trước hay không
? Hay là họ vẫn tin tưởng vào "mười sáu chữ vàng" và "bốn tốt" mà cộng
sản Tàu đã tặng họ để tự lừa dối và lừa dối dân mình ? Câu trả lời là
có. Bằng cớ là năm 1979, khi hai đảng cơm không lành, canh không ngọt,
môi không theo răng bị răng cắn bật máu, cộng sản Việt Nam không những
chỉ tố cáo trước người dân ở trong nước mà còn trước dư luận thế giới
qua những tài liệu do chính họ xuất bản từ Hà Nội, theo đó Mao Trạch
Đông ngay từ giữa thập niên ba mươi của thế kỷ trước đã nuôi mộng theo
chân Tần Thủy Hoàng muốn làm bá chủ của cả thế giới, bắt đầu là Đông Nam
Á.
Trong
hai tài liệu nhan đề "Sự thật về Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30
năm qua" bằng tiếng Việt do Nhà xuất bản Sự Thật ấn hành năm 1979 và tái
bản năm 1980, và "Chinese Aggression Against Vietnam", hồ sơ do Vietnam
Courrier chủ biên, xuất bản ỏ Hà Nội năm 1979, ngay từ những trang đầu,
người ta có thể đọc được những chi tiết như sau :
Ngay
từ năm 1939, trong tài liệu nhan đề Cách Mạng Trung Quốc và Đảng cộng
sản Trung Quốc do chính ông viết, Mao Trạch Đông đã nhận định : "Sau khi
dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều
nước phụ thuộc và một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc : Nhật chiếm
Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm
Miến Điện, Bu-tan, Nê-pan và Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…" Tiếp đến,
một bản đồ trong một sách giáo khoa đã vẽ nhiều lãnh thổ của các nước
trong vùng biển Đông Nam Á và Biển Hoa Đông là thuộc Trung Hoa. Sau đó,
năm 1959, trong một buổi họp của Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Trung
Quốc, khi nói về bang giao quốc tế, Mao Trạch Đông phát biểu rõ hơn nữa
về tham vọng thống trị toàn cầu của mình.
Lãnh
tụ này nói : "Chúng ta phải chinh phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta
là toàn thể trái đất" hay hạn hẹp hơn và kế hoạch hơn : "Chúng ta phải
giành cho được Đông Nam Châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan,
Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam Châu Á rất
giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để
chiếm lấy… Sau khi giành được Đông-nam Châu Á, chúng ta có thể tăng
cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức
mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây".
Về
sự lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở biên giới Trung Việt, qua tài liệu
"Chinese Aggression Angainst Vietnam", chính quyền cộng sản Hà Nội tố
cáo Trung Quốc vi phạm các Công Ước 1887 và 1895 ký kết giữa Nhà Thanh
và nước Pháp, lấn chiếm 60 địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam ngay từ trước
năm 1949, sau đó, từ sau năm 1949, bất chấp sự xác nhận lại các công
ước này bởi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
vào năm 1957-1958, cộng sản Bắc Kinh lại sáp nhập thêm trên 90 địa điểm
khác ở biên giới giữa hai nước.
Chưa
hết, cũng theo tài liệu này, từ sau năm 1974 con số các cuộc xâm nhập
lại tiếp tục gia tăng mạnh mẽ hơn với 179 vụ năm 1974, 294 vụ năm 1975,
812 vụ năm 1976, 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978. Cuối cùng ngày 10
tháng 2 năm 1979, hai tiểu đoàn chính quy Trung Quốc đã tiến sâu 2 cây
số vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm đồn kiểm soát Thanh Loa, huyện Cao Lộc,
tỉnh Lạng Sơn.
Vẫn
chưa hết, trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ hai 1984-1987,
sau một trận đánh ác liệt ở núi Lão Sơn, mà người Việt quen gọi là Núi
Đất hay tọa điểm 1502, thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà
Giang, quân Trung Quốc đã chiếm được núi này, 3.700 lính phòng thủ Việt
Nam đã hoàn toàn bị tiêu diệt, xác của họ đã bị đơn vị chống hóa chất
của bên địch thiêu hủy không còn vết tích. Lão Sơn không phải là tọa
điểm duy nhất bị quân Trung Quốc đoạt mà còn nhiều tọa điểm khác như các
tọa điểm 1030, 852, 211, 138, 156, 166, 167, 168… nằm sâu trong lãnh
thổ Việt Nam. Sau trận này Việt Nam đã mất thêm từ 600 đếm 1000 cây số
vuông lãnh thổ về tay Trung Quốc.
Có
điều lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã giấu nhẹm không cho dân chúng
biết gì về trận chiến bi thảm này cho mãi đến khi Trung Quốc phổ biến
phần nào trên các mạng của họ. Điều nên biết là trong thời gian này
Trung Quốc luôn luôn dùng thủ đoạn cho di dân của mình sang khai thác
đất đai hay cư ngụ trên lãnh thổ thuộc Việt Nam dọc biên giới, rồi sau
đó áp lực bắt Việt Nam phải công nhận những vùng đất này là thuộc nước
họ. Sự kiện này giải thích tại sao lại có chuyện điều đình và sửa lại
các công ước mà trước Nhà Thanh đã ký với Pháp mà nội dung đã được hai
phía làm sáng tỏ không lâu, trong các năm 1957, 1958 trước đó, như tôi
đã nói ở trên qua các hiệp ước 1999, 2000. Chiến thuật này đang được họ
dùng ở Biển Đông trên một quy mô rộng rãi hơn, lớn hơn qua việc họ chiếm
Hoàng Sa và một số đảo thuộc Quần Đảo Trường Sa rồi tìm cách hợp thức
hóa sau này.
Việt
Nam giấu nhẹm nhưng Trung Quốc thì coi là quan trọng và quảng bá rộng
rãi. Họ đã cho công bố hình ảnh Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương tới thăm
địa điểm Lão Sơn này, kèm theo hình ảnh những công sự và đường sá mà họ
thiết lập sau đó, nhắm về phía Việt Nam. Những sự kiện này khiến cho
những ai quan tâm đến sự sống còn của đất nước không khỏi không liên
tưởng tới sự kiện Giang Trạch Dân đã bay thẳng từ Trung Quốc đến bơi ở
biển Mỹ Khê, Đà Nẵng như là biển nhà của mình thay vì phải qua Hà Nội
gặp chủ nhà trước, hay Hồ Cẩm Đào đến bơi ở biển Hội An khi đến dự Hội
Nghị OPEC, hay chuyện Đảng cộng sản Việt Nam cho phép và bảo vệ các
thanh niên người Hoa rước đuốc thế vận qua Saigon và các đảo trong khi
mọi cuộc tụ tập của người Việt đều bị đàn áp, cấm đoán.
Trước
tình trạng cực kỳ nguy hiểm kể trên, câu hỏi được đặt ra là khả năng đề
kháng của người Việt Nam như thế nào và những người có trách nhiệm bảo
vệ đất nước và sự tồn vong của dân tộc đã có thái độ ra sao và đã làm gì
? Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta còn cần có nhiều buổi hội
thảo khác với những đóng góp của nhiều thuyết trình viên khác. Tạm thời
tôi chỉ xin mời quý vị đọc lại bản kiến nghị mà tôi đã đề cập đến trong
phần đầu của bài thuyết trình hay những bức thư mà Hòa thượng Thích
Quảng Độ hay những bài viết của nhiều vị nhân sĩ, trí thức như Thiếu
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc và nhiều người
khác ở trong nước viết trong ít năm gần đây.
Trước
khi ngưng lời, tôi xin được trích dẫn lời của Thiếu tướng Lê Duy Mật,
nguyên Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Khu 2, Chỉ huy trưởng Mặt
trận Hà Giang trong thời gian chiến tranh biên giới, khi ông trả lời
Biên tập viên Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do, RFA, ngày 17 tháng 2 năm
2013 về sự kiện là "nhiều gia đình liệt sĩ của cuộc chiến 1979 đã không
biết hài cốt con em mình nằm tại đâu vì sau đợt cắm mốc biên giới thì
phần đất Việt Nam chôn hài cốt liệt sĩ đã thụt sâu về phía Trung Quốc.
Thiếu tướng có nghĩ rằng nhà nước phải làm một điều gì đó để mang lại
công bằng cho những người này hay không ?".
Nguyên văn câu trả lời của tướng Lê Duy Mật như sau :
"Nhà
nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc, nếu không phải bàn
với ngoại giao Trung Quốc, quân đội Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc thì
mới có thể giải quyết được".
Câu
trả lời của tướng Mật là về các liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến
Việt Trung 1979 và 1984-1987, nhưng nội dung của nó đã bao gồm toàn bộ
các vấn đề liên hệ đến bang giao Trung-Việt trong hiện tại. "Nhà nước ta
lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc" là nguồn gốc của tất cả. Đó
là lý do tôi lựa chọn đề tài cho buổi thuyết trình ngày hôm nay, chưa kể
tới tình trạng vô cảm của không ít người Việt trước hiện tình vô cùng
nguy hiểm của đất nước, sự mất tin tưởng của đa số người dân và sự bất
lực của giới trí thức và sự bất cập không đối phó được với tình thế mới
trong mọi sinh hoạt từ chính trị đến kinh tế, xã hội và luôn cả văn hóa ở
Việt Nam sau 38 năm cộng sản làm chủ toàn thể đất nước, và 27 năm đổi
mới.
Lãnh
đạo cấp cao của hai đảng cộng sản đã thỏa hiệp với nhau những gì trên
đầu người dân Việt Nam từ sau cuộc chiến biên giới Trung-Việt, từ sau
Hội Nghị Thành Đô 1990, từ sau những buổi gặp gỡ của Lê Khả Phiêu, Nông
Đức Mạnh và sau này Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang với các nhà lãnh
đạo Trung Quốc ? Chỉ có những người này mới biết được nhưng không bao
giờ và sẽ chẳng bao giờ họ nói ra cả.
Về
điểm này, tôi xin được nhắc lại lời Vua Lê Thánh Tông dụ bọn các ông
Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư, 1473, nguyên văn
như sau :
"Một
thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ ? Ngươi phải kiên
quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai
sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem
một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru
di".
Lịch
sử đã được chép, đang đuợc chép và sẽ còn được chép dù cho môn sử học,
vì lý do nào đó, trái với truyền thống của dân tộc, trái ngay cả với
nhận định "dân ta phải biết sử ta" của Hồ Chí Minh và ngược lại với
chương trình giáo dục của bất cứ quốc gia độc lập và có chủ quyền nào,
kể cả các quốc gia tiền tiến về khoa học và kỹ thuật, không còn được coi
là quan trọng trong chương trình giáo dục của Việt Nam hiện tại. Đây
cũng là một lý do khác đã và đang làm cho chúng ta mất nước.
Để
kết luận ta có thể nói rằng những gì đang xảy ra trên lãnh
thổ Việt Nam dưới sự cai trị của người Cộng Sản hoàn toàn
trái với thời người Việt Quốc Gia trước đó. Với người Việt
Quốc Gia dù là ở bất cứ thời nào, từ Chính phủ Trần Trọng
Kim hồi năm 1945, xuyên qua Quốc Gia Việt Nam hồi trước năm 1954,
rồi Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa ở Miền Nam, sự toàn vẹn lãnh
thổ của tổ quốc luôn luôn được coi là tối quan trọng và mọi
người phải có nhiệm vụ bảo toàn. Lịch sử đã chứng minh điều
này.
Xin cảm ơn Quý vị đã kiên nhẫn lắng nghe hay đã đọc và đọc lại bài thuyết trình này. Xin kính chào Quý vị.
Phạm Cao Dương
Nguồn : Nhật báo Văn hóa, 10/06/2018