Tháng Tư và ký ức tập thể (Nguyễn Hưng Quốc)
Ký
ức của cộng đồng người Việt ở hải ngoại chủ yếu là ký ức của nạn nhân.
Một ký ức đầm đìa máu và nước mắt. Không phải chỉ có máu và nước mắt
thời kỳ chiến tranh mà còn có máu và nước mắt lúc chiến tranh đã kết
thúc. Ở các nhà tù và trại cải tạo. Ở các chiến dịch đánh tư sản mại
bản. Ở chính sách ngăn sông cấm chợ. Ở sự kỳ thị vùng miền và lý lịch. Ở
những cuộc di tản và vượt biên đầy hãi hùng.
Cách đây khoảng chín, mười năm, có một nghệ sĩ khá nổi tiếng từ Việt Nam sang tham dự một sinh hoạt văn nghệ tại Úc. Sinh
ở Hà Nội sau năm 1975, anh là một nghệ sĩ tài hoa và có tinh thần cách
tân khá triệt để. Và vì tinh thần cách tân ấy, dù tài hoa, anh vẫn bị cô
lập ở Việt Nam.
Sự
cô lập ấy càng củng cố tư thế độc lập của anh ; và tư thế độc lập ấy,
đến lượt nó, củng cố cái nhìn cởi mở về nhiều vấn đề liên quan đến chính
trị và xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, sau một thời gian tiếp xúc thân mật
với nhiều người trong cộng đồng người Việt tại Úc, anh vẫn bị sốc. Một
lần, anh tâm sự : "Điều em ngạc nhiên nhất là bà con bên này bị ám ảnh
về quá khứ nhiều quá. Lần nói chuyện nào cũng dẫn đến những chuyện trước
75, rồi những chuyện sau 75, từ chuyện chiến tranh đến chuyện kinh tế
mới, chuyện cải tạo và chuyện vượt biển. Ở trong nước, hầu như bọn em
chẳng bao giờ nhớ hay nghĩ đến những chuyện như vậy nữa".
Không
phải chỉ có anh bạn nghệ sĩ ấy. Tôi đã nghe nhiều người nói thế. Có
người viết hẳn trên báo chí. Là : những chuyện mà nhiều người ở hải
ngoại còn trăn trở mãi, ở trong nước, người ta đã quên mất từ lâu rồi.
Một số người còn lên giọng : Nên gạt bỏ quá khứ để hội nhập vào dòng
chuyển động không ngừng của đất nước.
Những lời phát biểu ấy khiến tôi nghĩ ngợi về đề tài ký ức.
Trước
hết, cần nói ngay, ký ức, đặc biệt ký ức tập thể (collective memory)
hay ký ức văn hóa (culture memory) là một đề tài khá mới trong giới
nghiên cứu. Trước, từ thời Khai Sáng, ở con người, giới nghiên cứu chỉ
chú ý đến lý trí. Từ Descartes đến Pascal và Kant, người nào cũng đề cao
lý trí, cũng đều xem lý trí là năng lực tối thượng phân biệt con người
và các loài động vật khác. Từ đầu thế kỷ 20, dưới ảnh hưởng của Freud,
và sau đó, của Jung, với nhiều trường phái khác nhau trong chủ nghĩa
hiện đại, người ta lại đề cao vô thức, xem chính vô thức mới là động lực
chính thúc đẩy và quyết định những sự lựa chọn trong đời sống cũng như
trong các hoạt động sáng tạo. Chỉ khoảng vài thập niên gần đây, người ta
mới hay đề cập đến vai trò của ký ức, thoạt đầu trong lãnh vực xã hội
học, sau, trong văn hóa học.
Có
một câu nói nổi tiếng tiêu biểu cho quan niệm này : Chúng ta là những
gì chúng ta nhớ (We are what we remember). Những gì chúng ta nhớ tạo nên
ý nghĩa cho những gì chúng ta làm hoặc chứng kiến ; và tất cả những gì
chúng ta làm hoặc chứng kiến được ghi nhớ ấy sẽ tạo nên hình ảnh của
chính chúng ta. Chính những hình ảnh ấy là những nguyên liệu đầu tiên và
quan trọng nhất tạo nên bản sắc của từng người. Bởi vậy những người bị
mất trí nhớ bao giờ cũng bị mất ý niệm về bản sắc : Họ không biết họ là
ai.
Nhưng ký ức có hai đặc điểm quan trọng cần lưu ý :
Thứ
nhất, nó không phải là cái gì thuần tuý có tính cá nhân. Bất cứ ký ức
nào cũng có tính tương tác. Nhớ, dù là nhớ một kỷ niệm hoàn toàn riêng
tư, cũng vẫn liên hệ với một cái gì khác : một thời gian, một không
gian, một cảnh huống và những con người khác. Qua việc nhớ, do đó, chúng
ta nối kết bản ngã và môi trường chung quanh, nối kết quá khứ và hiện
tại, cá nhân và tập thể, cái riêng và cái chung. Bởi vậy ký ức nào, dù
riêng tư đến mấy, vẫn lấp lánh hồi quang của cả một cộng đồng : ký ức,
một mặt, kiến tạo và nuôi dưỡng bản sắc cá nhân, mặt khác, góp phần định
hình bản sắc tập thể ; rồi chính bản sắc tập thể ấy, đến lượt nó, lại
tác động ngược lại đến ký ức, biến ký ức thành một quá trình chọn lọc
liên tục.
Từ
đó, dẫn đến đặc điểm thứ hai : ký ức không phải là những gì cố định. Ký
ức không phải là kho lưu trữ hình ảnh một cách máy móc và vô hồn. Ký
ức, ngược lại, không ngừng được tái tạo và không ngừng được tái cấu
trúc. Cùng một sự kiện, được nhớ trong những thời điểm khác nhau, với
những quan điểm và những tâm trạng khác nhau, chúng ta có những hình ảnh
khác nhau với những ý nghĩa khác nhau. Bởi vậy, ký ức nào cũng có tính
hiện tại. Nó không phải chỉ là quá khứ. Nó là quá khứ được hiện tại hóa.
Và vì được hiện tại hóa, quá khứ nào cũng có tính chính trị của nó.
Nhớ, do đó, là một diễn ngôn (discourse), một loại hình tự sự, ẩn giấu
đằng sau những nỗ lực diễn dịch và tái diễn dịch quá khứ để đáp ứng
những thử thách của hiện tại.
Cũng
cần lưu ý là ký ức hiện diện ở mọi nền văn hóa. Ai cũng có ký ức và
cũng cần ký ức. Nhưng dường như với người Việt Nam, ký ức có tầm quan
trọng hơn hẳn ở những nơi khác, nhất là ở các nước Tây phương. Ở Tây
phương, nói chung, ký ức thường nhanh chóng được thu thập, lưu trữ, xác
minh và phân tích, cuối cùng, thành lịch sử. Ở Việt Nam, ký ức thường ở
nguyên dạng ký ức, khuất chìm trong vô thức, bàng bạc trong đời sống của
quần chúng. Cái gọi là lịch sử ở Việt Nam, phần lớn chỉ là những mảnh
ký ức rời, nhập nhòa giữa huyền thoại và sự thực, đậm đặc màu sắc truyền
thuyết. Nếu lịch sử là những đại tự sự (grand narrative), ký ức chỉ là
những tiểu tự sự. Nếu lịch sử mang tính chính quy, đặc tuyển và nhất là
tuyến tính, ký ức thường đứng ngoài mọi thiết chế, gắn liền chủ yếu với
văn hóa dân gian, thường xuyên chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tương
tác trong xã hội.
Người
Việt thích sống với ký ức. Người Việt ở hải ngoại lại càng thích sống
với ký ức. Rời khỏi quê hương, sống hẳn ở nước người, tuyệt đại đa số
lưu dân, trong đó có người Việt Nam, không bao giờ có thể hội nhập hẳn
vào cuộc sống mới. Họ sống lửng lơ ở giữa (in-between). Giữa gì ? Giữa
quê gốc và quê mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Giữa hoài niệm và hoài
bão. Sống ở giữa là sống trên những biên giới, là lấp lửng ở bên này và
bên kia biên giới. Ở vùng biên giới ấy có gì ? Chủ yếu là ký ức. Ký ức
trở thành quê hương chính của những người lưu dân, bất kể là lưu dân
nào.
Nathalie
Huỳnh Châu Nguyễn, một nhà nghiên cứu trẻ và xuất sắc ở Úc, mới xuất
bản một cuốn sách mang nhan đề rất thú vị : "Ký ức là một quê hương khác
: Phụ nữ Việt Nam lưu vong" (1).
Sẵn,
xin nhắc : Trước đó, một nhà nghiên cứu Việt học lỗi lạc khác, Huệ-Tâm
Hồ-Tài, ở Mỹ, có một tác phẩm mang nhan đề tương tự, nhưng đối tượng
khảo sát lại là ở Việt Nam thời hậu chiến : "Quê hương của ký ức : Việc
tái tạo quá khứ ở Việt Nam thời hậu kỳ xã hội chủ nghĩa" (2).
Dĩ
nhiên, hai cái "quê hương" được đề cập trong hai tác phẩm vừa kể rất
khác nhau. Khác, không những ở cấp độ mà còn về bản chất : với người
trong nước, ký ức là một quê hương của lựa chọn ; với những người lưu
dân hay lưu vong, ký ức là quê hương của số phận. Là quê hương duy nhất.
Ngoài nó, có khi không còn gì khác.
Người
lưu dân hay lưu vong nào cũng gắn bó với ký ức. Những người lưu dân hay
lưu vong ra đi từ một đất nước tan nát vì chiến tranh và ngập ngụa hận
thù lại càng quay quắt với ký ức. Những người lưu dân và lưu vong đến
sống ở các nền văn hóa khác, hoàn toàn xa lạ với nền văn hóa gốc lại
càng bị giam hãm trong ký ức. Nói như thế cũng là cách mặc nhiên phân
biệt hai loại ký ức : ký ức của người thắng cuộc và ký ức của các nạn
nhân.
Ký
ức của cộng đồng người Việt ở hải ngoại chủ yếu là ký ức của nạn nhân.
Một ký ức đầm đìa máu và nước mắt. Không phải chỉ có máu và nước mắt
thời kỳ chiến tranh mà còn có máu và nước mắt lúc chiến tranh đã kết
thúc. Ở các nhà tù và trại cải tạo. Ở các chiến dịch đánh tư sản mại
bản. Ở chính sách ngăn sông cấm chợ. Ở sự kỳ thị vùng miền và lý lịch. Ở
những cuộc di tản và vượt biên đầy hãi hùng.
Đòi
hỏi những người mang trong đầu và trong tim loại ký ức đầy máu và nước
mắt ấy là một đòi hỏi vô cảm. Xuất phát từ miệng của những người thắng
cuộc, nó không những vô cảm mà còn lưu manh.
Nhớ,
cách đây một hai năm gì đó, khi đọc một bài báo của một nhà văn miền
Nam từng tham gia "Mặt trận" trước năm 1975, trong đó, ông phiền trách
nhiều người ở hải ngoại sao cứ đau đáu mãi với quá khứ trong khi ông và
bạn bè và đồng chí của ông thì đã gạt hẳn tất cả qua một bên từ lâu rồi,
một người bạn tôi bình luận :
"Cứ
tưởng tượng có một thằng lưu manh đến cướp nhà của người ta và đuổi
người ta ra đường. Mấy năm sau, thấy nạn nhân nằm lê lết trên vỉa hè và
nhớ tiếc ngôi nhà cũ, tên ăn cướp lên giọng : ‘Tại sao ông bà lại phải
nhớ mãi những chuyện buồn như thế ? Tại sao không quên đi ? Tại sao
không hướng tới tương lai để sống một cách thanh thản chứ’ ? Nói xong,
hắn quay về nhà, cái căn nhà hắn cướp của người ta, ngồi trên ghế salon,
gác chân lên bàn, vừa nốc bia vừa nghĩ đến chuyện quên lãng và tha thứ
như một thứ đạo đức mới mà hắn mới phát hiện ra được".
Tôi
không chủ trương hận thù. Tôi biết có thứ đạo đức học của sự tha thứ
(ethics of forgiveness) nhưng tôi không hề tin vào thứ đạo đức học của
sự quên lãng (ethics of forgetting).
Theo
tôi, không phải chỉ có bản sắc mà cả ý niệm về đạo đức cũng được nuôi
dưỡng từ ký ức, kể cả, nếu không muốn nói, nhất là, những loại ký ức đầy
máu và nước mắt.
Nguyễn Hưng Quốc
Nguồn : fb.hungquoc.nguyen, 27/04/2018
(1) Memory is Another Country : Women of the Vietnamese Diaspora, Praeger, 2009.
(2 The Country of Memory : Remaking the Past in Late Socialist Vietnam, University of California Press, 2001.