Tháng 1 - 1974... Hoàng Sa máu đổ! (Nguyễn Thượng Long)
"Biển Đông vạn dặm giang tay giữ
Đất Việt ngàn năm vững trị bình"
Nguyễn Bỉnh Khiêm 1492 - 1585
Ảnh: bia chủ quyền của VN ở Hoàng Sa trước 1974
- Nguyên giáo viên dậy Địa Lý của Hòa Bình và Hà Tây.
Đất Việt ngàn năm vững trị bình"
Nguyễn Bỉnh Khiêm 1492 - 1585
Ảnh: bia chủ quyền của VN ở Hoàng Sa trước 1974
…Khi chưa có Mác-Lê, khi chưa có thành trì của vô sản quốc tế Liên
Xô-Trung Quốc… thì việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển đảo của tổ quốc
vẫn luôn luôn là ý thức thường trực của mọi người dân Việt Nam không
phân biệt tuổi tác, thành phần chính trị, nghề nghiệp, đảng phái, tôn
giáo, thuộc mọi triều đại. Đó là một trong những phẩm chất truyền thống,
giá trị vĩnh hằng đó được hun đúc và truyền dẫn từ đời này qua đời khác
trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước nhiều nghìn năm của
dân tộc.
Việt Nam là quốc gia sở hữu một đường bờ biển dài… việc xây dựng một lực
lượng hải quân mạnh, đủ sức làm tròn nhiệm vụ nòng cốt, giữ vững chủ
quyền biển đảo, được đặt ra khá sớm, ngay từ giai đoạn mở rộng bờ cõi ra
hướng biển. Đặc biệt khi chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng
Trong và sau này đến thời các vua Nguyễn cho lập các Đội Hoàng Sa, Đội
Bắc Hải ra khai thác, dựng bia, cắm mốc, làm nhà, xây miếu, trồng cây,
thực hiện nhiều việc xác định chủ quyền của nhà nước Việt Nam đối với
các đảo trong vùng biển thiêng liêng của Tổ Quốc. Việc tổ chức lực lượng
biển đảo như vậy, được tiến hành thường xuyên, liên tục, thành quy định
luân phiên nhau thực hiện từ năm này qua năm khác. Những người được
giao trọng trách luôn có ý thức, trách nhiệm làm tròn nhiệm vụ trong mỗi
chuyến đi.
Kế tục sự nghiệp của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải thời các Chúa Nguyễn và
Vua Nguyễn, ngay sau khi Pháp rút quân theo Hiệp Định Giơ Ne Vơ tháng 7
năm 1954, năm 1956 chính quyền Sài Gòn cho các đơn vị hải quân ra tiếp
quản quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ các đơn vị quân đội Pháp. Đối với
quần đảo Hoàng Sa, do hạn chế về nhiều mặt nhất là tầu thuyền cả về số
lượng, chất lượng nên hải quân Việt Nam Cộng Hòa chỉ kịp triển khai đóng
giữ phần phía Tây, chưa kịp ra phía Đông nên phần này bị Trung Quốc
chiếm mất. Trên các đảo mới tiếp quản, tuy lúc này còn nhiều khó khăn,
nhưng các đơn vị nhanh chóng triển khai lực lượng dựng bia, chòi canh,
xây dựng, củng cố trận địa, bố trí các đơn vị chiến đấu, tổ chức tuần
tra, canh gác, quan sát, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống nên chủ
quyền lãnh thổ phần phía Tây Hoàng Sa được giữ vững liên tục 18 năm từ
1956 đến 1974.
Đối với quần đảo Trường Sa, đề phòng Trung Quốc nhân cơ hội chiếm Hoàng
Sa sẽ liều lĩnh đưa quân xuống, chiếm đóng xen kẽ, gây nên tình hình
phức tạp trong khu vực, ngày 22 – 8 – 1956, chính quyền Sài Gòn cho một
đơn vị hải quân ra cắm cờ, dựng bia tại đảo Trường Sa Lớn.
Năm 1958, trong bối cảnh Mỹ bắt đầu can thiệp vào Việt Nam, coi Trung
Quốc, Liên Xô là kẻ thù, tăng cường lực lượng quân sự trong khu vực Thái
Bình Dương, tầu hải quân Mỹ đi lại, tuần tra dọc eo biển Đài Loan.
Trung Quốc đơn phương tuyên bố lãnh hải 12 hải lý, Thủ Tướng VNDCCH Phạm
Văn Đồng nhanh nhẩu ra công hàm công nhận Tuyên Bố này của Trung Quốc.
Lúc đó Việt Nam Cộng Hòa mới là chủ sở hữu hợp pháp phần biển đảo Nam vĩ
tuyến 17, đã tăng cường quân số, bổ sung vũ khí, đạn dược, lương thực,
thực phẩm, cơ sở vật chất nhằm bảo đảm khả năng chiến đấu lâu dài cho
các căn cứ đã đồn trú trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1965, khi Mỹ đưa quân vào miền Nam, thực hiện chiến lược chiến tranh
cục bộ, leo thang đánh phá miền Bắc, phân chia các vùng chiến thuật
trên toàn miền Nam, các đơn vị hải quân Sài Gòn trên mỗi đảo được tổ
chức biên chế thành các tiểu đội, trung đội, đại đội; bố trí quân số,
trang bị vũ khí, cơ số đạn theo phương án tác chiến phù hợp với quy mô,
vị trí từng đảo. Viên chỉ huy trung đội, đại đội được chỉ định làm đảo
trưởng để quản lý cả nhân viên khí tượng, thuỷ văn làm việc trên đảo.
Đầu năm 1974, tình hình khu vực Hoàng Sa diễn biến rất nhanh chóng, căng
thẳng khi ngày 11-1-1974 Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố các đảo thuộc
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do chính quyền Sài Gòn quản lý là một phần
lãnh thổ của CHND Trung Hoa. Ngay sau khi tuyên bố, Trung Quốc cho nhiều
chiến hạm và tầu cá vũ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa. Bốn ngày sau
15-1-1974 Trung Quốc bất ngờ cho máy bay ném bom và đưa quân đổ bộ chiếm
các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, Duy Mộng, Quang Hoà thuộc phần phía Tây
quần đảo Hoàng Sa do lực lương hải quân VNCH đóng giữ. Sau khi đổ bộ
Trung Quốc cho quân dựng trại, cắm cờ và rút lên tầu nghe ngóng, xem
phản ứng của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Trước hành động ngang ngược của Trung Quốc, Bộ Tư Lệnh hải quân chính
quyền Sài Gòn cho chiến hạm Trần Khánh Dư mang ký hiệu HQ-4, khu trục
hạm tối tân nhất của hải quân VNCH và cả khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ,
do Trung Tá hải quân Vũ Hữu San làm Hạm Trưởng ra giữ Hoàng Sa (sau
ngày 30 - 4 -1975 chiến hạm Trần Khánh Dư thuộc biên chế của hải quân
nhân dân Việt Nam với ký hiệu HQ- 01 do Đỗ Xuân Công làm Thuyền Trưởng).
Đi theo HQ- 4 lúc đó là một trung đội biệt hải để sẵn sàng đổ bộ tái
chiếm đảo. Để tăng cường khả năng tái chiếm đảo, cùng ngày, Bộ Tư Lệnh
hải quân VNCH cho tuần dương hạm Lý Thường Kiệt, do Trung Tá hải quân Lê
Văn Thư làm Hạm Trưởng ra phối hợp với chiến hạm Trần Khánh Dư.
Rạng sáng ngày 18-1, 2 tầu cá vũ trang Trung Quốc tiến vào Hoàng Sa. Khu
trục hạm Trần Khánh Dư và tuần dương hạm Lý Thường Kiệt đồng loạt dùng
tín hiệu cảnh báo: Đây là lãnh hải Việt Nam, các ông phải rời khỏi ngay.
Nhưng tầu cá Trung Quốc vẫn ngoan cố tiến vào. Trước thái độ ngang
ngược của đối phương, khu trục hạm Trần Khánh Dư dùng mũi tầu đâm thẳng
vào tầu địch, làm gẫy lan can phía trước và cong cửa buồng lái, buộc
địch phải lui, nhưng vẫn lởn vởn xung quanh Hoàng Sa, không chịu quay
về.
Trước tình hình tranh chấp quyết liệt, để tăng cường khả năng tái chiếm
đảo, trưa ngày 18-1, Bộ Tư Lệnh hải quân Sài Gòn cho thêm tuần dương hạm
Trần Bình Trọng, ký hiệu HQ-5, do Trung Tá hải quân Phạm Trọng Quỳnh
làm Hạm Trưởng xuất phát đi Hoàng Sa. Cùng đi có Đại Tá hải quân Hà Văn
Ngạc được cử làm chỉ huy trưởng lực lượng chiến đấu bảo vệ Hoàng Sa.
Trên tuần dương hạm Trần Bình Trọng ngoài sỹ quan, thuỷ thủ của tầu, có
thêm một trung đội người nhái, có nhiệm vụ sẵn sàng đổ bộ tái chiếm đảo
khi thời cơ đến. Với quyết tâm chiếm lại đảo, nửa đêm 18 – 1, Bộ Tư Lệnh
hải quân VNCH lại cho hộ tống hạm Nhật Tảo, ký hiệu HQ – 10 do Trung Tá
hải quân Nguỵ Văn Thà làm Hạm Trưởng ra chi viện cho lực lượng đang có
mặt tại khu vực đảo. Như vậy lúc này, tại khu vực Hoàng Sa có 4 tầu lớn
của Hải Quân VNCH gồm 1 khu trục hạm, 2 tuần dương hạm, 1 hộ tống hạm
đều sẵn sàng cho trận tái chiếm, bảo vệ biển đảo.
Rạng sáng ngày 19- 1, Trung Quốc cho tầu chiến và tầu cá vũ trang tiếp
tục khiêu khích, tiến sát vào Hoàng Sa. Trước sự ngoan cố, liều lĩnh của
Trung Quốc, 6 h 30’ khu trục hạm Trần Khánh Dư tiến sát vào phía Tây
Bắc đảo Quang Hoà và trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ. Đến gần đảo,
phát hiện một doanh trại mới và cột cờ Trung Quốc, trung đội biệt hải đổ
bộ lên phần phía Đông Nam của đảo và cắm cờ VNCH lên bờ cát và hốc đá,
không thể đổ bộ lên toàn đảo. Trong khi đó, do tầu đối phương còn lởn
vởn quanh đảo nên tuần dương hạm Trần Bình Trọng cũng không thể đến gần,
buộc phải dừng từ xa, thả xuồng cao su để đưa lực lượng người nhái lên
đảo, song ngay việc đổ bộ bằng xuồng cũng gặp khó khăn, do ngược chiều
gió, xuồng đi rất chậm, nên không chi viện kịp. Trong lúc lực lượng hải
quân VNCH chưa kịp triển khai, tận dụng lợi thế xuôi gió, Trung Quốc cho
quân đổ bộ ở phía Bắc, từ đó tiến sâu vào bên trong, chiếm đảo Quang
Hoà, rồi lần lượt chiếm đóng các đảo khác.
Việc 2 trung đội biệt hải và người nhái đổ bộ tái chiếm đảo không thể
thực hiện, Đại Tá Ngạc ra lệnh cho 4 chiến hạm đi theo đội hình một hàng
dọc và đồng loạt khai hoả nghênh chiến với tầu Trung quốc đông gấp 2
lần. Tuy nhiên do chênh lệch về lực lượng, các tầu của hải quân VNCH lại
cũ, máy yếu nên không thắng được tầu hải quân Trung Quốc đông hơn,
nhiều hơn về lực lượng, vũ khí, trang bị. Phía VNCH… cái bị chìm, cái bị
thương, một số binh sĩ bị thương và hy sinh.
8h 30’ tuần dương hạm Trần Bình Trọng bị đại liên và cối 82 bắn vào đội
hình người nhái, trúng vào bệ pháo 127 ly làm 3 quân nhân hy sinh, 2 bị
thương. Tình hình chiến sự diễn ra mỗi lúc một căng thẳng, quyết liệt.
Anh em rất muốn nổ súng trả thù cho đồng đội, nhưng Hạm Trưởng Quỳnh
không thể ra lệnh điểm hoả vì lực lượng người nhái đang rơi vào tình thế
cực kỳ nguy hiểm, nếu nổ súng, khả năng thương vong sẽ rất lớn. Tình
thế không cho phép, binh sĩ trên tầu đành nuốt hận, nén đau thương, băng
bó, cấp cứu cho người bị thương, bó thi hài cho người hy sinh, đưa vào
khoang thuỷ thủ, đồng thời vừa sửa chữa, khắc phục hỏng hóc, vừa cho tầu
lết theo đội hình chiến đấu.
Cùng thời điểm này, tầu Nhật Tảo bị 2 quả 100 ly bắn trọng thương, Hạm
Trưởng Nguỵ Văn Thà hy sinh tại chỗ, Hạm Phó Nguyễn Thanh Trí bị thương
nặng, tầu chìm, 28 quân nhân dìu nhau xuống bè, sau nhiều ngày trôi dạt
đã được một tầu dầu của hãng Sell mang quốc tịch Hà Lan là Konionella
cứu, đưa về Đà Nẵng. Hộ tống hạm Nhật Tảo bị loại ra khỏi trận chiến.
Lúc này tuần dương hạm Lý Thường Kiệt trúng đạn, bị thương rớt lại phía
sau, tuần dương hạm Trần Bình Trọng bị hư hỏng nặng, chỉ còn khu trục
hạm Trần Khánh Dư một mình đơn độc chiến đấu.
16h 30’ chiến hạm Trần Khánh Dư được lệnh ủi thẳng lên đảo Quang Hoà,
130 thuỷ thủ bám sát vị trí sẵn sàng chiến đấu chiếm lại đảo, song các
khẩu đại bác đều trục trặc, không khắc phục kịp sự cố kỹ thuật, cơ số
đạn không đủ để tác chiến trong thời gian dài, lúc mà quân Trung Quốc đã
đổ bộ chiếm đảo từ sáng sớm. Biết khả năng tái chiếm đảo là khó thực
hiện, Hạm Trưởng San báo cáo trực tiếp với Tư Lệnh hải quân VNCH là HQ –
4 không còn khả năng đánh chiếm đảo. Trước tình hình đó, lệnh từ đất
liền: Các tầu quay về, huỷ lệnh tái chiếm Hoàng Sa.
17h chiều 19-1-1974, trận hải chiến giữa hải quân VNCH và hải quân Trung
Quốc kết thúc với phần thắng thuộc về đối phương. Hải quân Trung Quốc
đã chiếm đảo Quang Hoà và các đảo còn lại thuộc phần phía Tây của quần
đảo Hoàng Sa do Việt Nam chiếm giữ từ trước. 5h 30’ ngày 20-1-1974 (Tức
ngày 30 tháng chạp năm Quý Sửu, tức ngày 30 tết) khu trục hạm Trần Khánh
Dư (HQ-4) về đến cảng Tiên Sa – Đà Nẵng; 9 giờ tuần dương hạm Trần Bình
Trọng (HQ- 5) vào cảng. 12 giờ cùng ngày, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt
từ từ tiến vào vịnh Đà Nẵng với sự hộ tống của 2 tầu lai dắt.
Bị mất Hoàng Sa, đề phòng Trung Quốc lợi thế đánh chiếm Trường Sa, ngày
1-2-1974, Bộ Tư Lệnh hải quân Sài Gòn cho quân đồn trú đồng loạt trên
các đảo Trường Sa Lớn, Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn, tổ chức
tuần tra, canh gác bảo vệ đảo. Tháng 4 – 1975, Hải Quân ND VN thu hồi
các đảo trên từ Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà. Nhờ hải quân VNCH đã bảo vệ
thành công 5 đảo quan trọng kể trên mà hải quân NDVN có điều kiện mở
rộng quyền kiểm soát trên 21 hòn đảo khác trong vùng biển Trường Sa.
Hiện nay, Việt Nam là quốc gia kiểm soát nhiều đảo nhất trong vùng biển
này, kế đến Trung Quốc 7, Đài Loan 1, Philippine 9, Malaisia 5 đảo.
Lời cuối…
Biển đảo của tổ tiên dù trong tay các vua chúa phong kiến ngày xưa,
trong tay những người thuộc thời đệ nhất hay đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa
hay đang trong tay nhà nước CHXHCN Việt Nam… đều thấm đẫm biết bao mồ
hôi, nước mắt và cả xương máu của biết bao người con đất Việt đã đổ ra
vì sự toàn vẹn và trường tồn của những vùng biển đảo thiêng liêng đó.
Phủ nhận những hy sinh to lớn của những người này, những người nọ là có
tội với tiền nhân, có tội với lịch sử, là trái với đạo lý uống nước nhớ
nguồn. Rẻ rúng những gì mà những người đồng bào của mình đã dâng hiến,
chúng ta không hề đẹp thêm trong con mắt của những dân tộc văn minh và
giàu lòng tự trọng, không hề mạnh thêm trong con mắt của những thế lực
đang muốn thôn tính vùng biển đảo thiêng liêng này.
Thái độ đúng đắn, hợp đạo lý, hợp lòng người nhất là hãy cùng nhau xoá
bỏ hận thù, cùng đốt lên nén hương tôn vinh bất cứ ai đã không tiếc thân
mình cho sự toàn vẹn và trường tồn của những vùng biển đảo thiêng liêng
đó, dù họ là ai. Dòng máu của Nguỵ Văn Thà - Hạm Trưởng, Nguyễn Thành
Trí Hạm Phó hộ tống hạm Nhật Tảo cùng các chiến hữu trong hải quân VNCH
khác đã ngã xuống trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974, có khác gì đâu
dòng máu của các liệt sĩ hải quân quân đội NDVN 14 năm sau đã tức tưởi
đổ ra trên đảo Gạc Ma 1988 vì một mệnh lệnh cực kỳ phản động là “Không được đánh trả…”.
Nước mắt và nỗi đau của những người vợ, người mẹ ông Nguỵ Văn Thà và các
chiến hữu của ông, có khác gì đâu nước mắt và nỗi đau của những người
vợ liệt sĩ, những mẹ Việt Nam anh hùng có người thân đã bỏ mình vì đất
nước.
Hà Đông 1 - 2018
- Nguyên giáo viên dậy Địa Lý của Hòa Bình và Hà Tây.
- Nơi ở : Nhà số 4 – Ngách 12 – Ngõ 102 – Đường Văn La – Hà Đông – Hà Nội.
- ĐT 01652323836.
- Email: nguyenthuonglong571@gmail.com