Trung Quốc xuất khẩu nợ, Việt Nam có ảnh hưởng? (Phạm Sỹ Thành)
Khi Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu vốn, điều này có ý nghĩa trong việc
bổ sung nguồn vay để đầu tư phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, các tác
động khác cũng cần được cân nhắc. Đầu tiên, điều này có thể phá vỡ trần
nợ công của Việt Nam. Tiếp đó, các vấn đề lao động Trung Quốc bất hợp
pháp cũng có thể gây ra các tác động tiêu cực về an ninh xã hội. Cuối
cùng, nhưng không kém quan trọng, các tác động môi trường cần được đánh
giá đầy đủ và có chế tài hợp lý.
Theo
một báo cáo của J.P. Morgan tháng 9-2017, tổng nợ của Trung Quốc tương
đương 289% GDP, tức là khoảng 30.000 tỉ đô la Mỹ, tăng gần 30 điểm phần
trăm so với năm 2015 (260% GDP). Điều đáng nói là sau các chính sách
kích thích kinh tế để chống chọi với khủng hoảng tài chính toàn cầu, tỷ
lệ này đã tăng gấp đôi chỉ trong vòng chín năm (năm 2008 là 141,3% GDP),
bằng với mức tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng đầu tư đa quốc gia Goldman
Sachs cho rằng sẽ mất khoảng nửa thập kỷ để ổn định tỷ lệ này. Hãng
S&P Global Ratings hôm 29-9-2017 cảnh báo tổng nợ Trung Quốc có thể
tăng đến 46.000 tỉ đô la Mỹ vào năm 2021.
Nợ của Trung Quốc: phần chìm của núi băng ở đâu?
Số liệu tính đến hết quí 2-2017 cho thấy khuynh hướng mở rộng tỷ lệ nợ
của cả khu vực doanh nghiệp (phi tài chính) và hộ gia đình Trung Quốc,
trong đó tỷ lệ đòn bẩy của doanh nghiệp Trung Quốc cao hơn nhiều tỷ lệ
đòn bẩy của doanh nghiệp Mỹ (67% GDP), Đức (54%) và Hàn Quốc (105%).
Những lo ngại lớn nhất của Trung Quốc trong vấn đề nợ là (i) nợ của các
doanh nghiệp nhà nước (DNNN), (ii) nợ của chính quyền địa phương và
(iii) hệ thống ngân hàng mờ (shadow banking).
Cuối năm 2015, 42% số DNNN thua lỗ, 1,8 triệu lao động đã mất việc do
hoạt động tái cơ cấu trong ngành than và thép. Khảo sát đối với 6.800
công ty phát hành trái phiếu cho thấy đầu năm 2016 tỷ lệ vay nợ cũ để
trả nợ lên tới 42%, trong khi con số này của năm 2014 chỉ có 8%. DNNN
hiện chiếm khoảng 40% quy mô tín dụng của hệ thống ngân hàng, nhưng tỷ
lệ lợi nhuận trên vốn chỉ bằng một nửa so với các doanh nghiệp tư nhân.
Điều này khiến chỉ số ICOR của Trung Quốc đã tăng vọt từ mức 1,3 (cách
đây 10 năm) lên 4 (năm 2016). Tại Hội nghị công tác tài chính được tổ
chức vào tháng 7-2017, ông Tập Cận Bình đã nhấn mạnh “phải coi việc giảm
nợ của các DNNN là trọng tâm hàng đầu”.
Về nợ của chính quyền địa phương, hiện Trung Quốc đã cho khoảng 50% số
tỉnh được thí điểm phát hành trái phiếu, nhưng việc bán ra thị trường
không dễ do thông tin thiếu minh bạch và các tiêu chuẩn kiểm toán. Tuy
nhiên, việc phát hành 1.000-2.000 tỉ nhân dân tệ trái phiếu là quá nhỏ
so với quy mô nợ địa phương của Trung Quốc. Theo số liệu đến hết tháng
9-2017, các tỉnh Trung Quốc đã vay thêm 160 tỉ đô la Mỹ thông qua các
sàn huy động vốn, nhiều hơn 20% so với cả năm 2015.
Những báo cáo về hệ thống tài chính tiền tệ của Trung Quốc đều chưa đề
cập đến điều mà Chính phủ Trung Quốc quan ngại nhất - các khoản tín dụng
của hệ thống ngân hàng mờ. Theo số liệu của MERICS, quy mô tín dụng của
hệ thống này đã tăng từ 202.000 tỉ nhân dân tệ (295% GDP, năm 2015) lên
255.000 tỉ nhân dân tệ (329% GDP, tính đến tháng 5-2017), tăng 33,8%.
Mặc dù Trung Quốc đã xác định trọng tâm cải cách kinh tế suốt năm năm
qua tập trung vào năm nhiệm vụ là (i) giảm dư thừa sản lượng, (ii) giảm
tồn kho, (iii) giảm tỷ lệ đòn bẩy nợ, (iv) bù đắp cho các khu vực khó
khăn, (v) giảm chi phí vốn, nhưng việc giảm tỷ lệ nợ chưa có những tiến
triển mạnh. Năm 2017 là năm mà Chính phủ Trung Quốc họp số hội nghị công
tác tài chính tiền tệ nhiều nhất trong vòng năm năm qua. Vào tháng
4-2017, trong một buổi học tập của 25 ủy viên Bộ Chính trị, ông Tập Cận
Bình đã yêu cầu “không được coi thường bất kỳ rủi ro nào, không để lọt
sàng bất kỳ ẩn họa nào”.
Cách xử lý núi nợ: xuất khẩu “giải pháp”, xuất khẩu nợ.
Có thể Trung Quốc sẽ không phải hứng chịu một cuộc khủng hoảng tài
chính nặng nề trong giai đoạn tới do đã hạn chế được tính dễ bị tổn
thương bên ngoài và khu vực ngân hàng khá lành mạnh. Quỹ Tiền tệ quốc tế
(IMF) đánh giá rằng Chính phủ Trung Quốc vẫn có đủ những công cụ chính
sách nhằm tránh một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Những công cụ
này bao gồm dự trữ ngoại tệ lớn (3.000 tỉ đô la Mỹ vào năm 2017), tỷ lệ
nợ nước ngoài thấp (chỉ khoảng 10% tổng nợ), tài sản đáng kể của khu vực
công... Hơn thế, các chuyên gia tài chính của Ngân hàng Nhân dân Trung
Quốc (PBoC) đã liên tục có các biện pháp nhằm tái cơ cấu các khoản nợ trong suốt mấy năm qua, bao gồm cả các quy định ngặt nghèo đối với hệ thống ngân hàng trong việc cho vay mới.
Để giải quyết gánh nặng dư thừa sản lượng và tỷ lệ nợ gia tăng của các
doanh nghiệp trong nước, Trung Quốc đã đẩy mạnh các sáng kiến kinh tế
đối ngoại, thúc giục các nước phối hợp với Trung Quốc để xây dựng các mô
hình hợp tác kinh tế chưa từng có tiền lệ. Về thương mại và sản xuất,
Trung Quốc hiện đẩy mạnh hợp tác với nhiều nước với nhiều mô hình khác
nhau. Tại Pakistan, Trung Quốc xây dựng khu kinh tế đặc biệt tại cảng
Gwadar. Tại Myanmar, Trung Quốc đã giành được quyền xây dựng đặc khu
kinh tế Kyaukpyu. Tại Campuchia, Trung Quốc cũng thuê đất và xây dựng
đặc khu kinh tế Sihanoukville. Những mô hình hợp tác mới mà Trung Quốc
đang thúc đẩy mạnh mẽ tại nhiều quốc gia thuộc phạm vi sáng kiến Vành
đai, Con đường (BRI), trong đó có cả Việt Nam, là mô hình “hợp tác năng
lực sản xuất” và “khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới”.
Song song với các hoạt động hợp tác thương mại và sản xuất, Trung Quốc
cũng tăng cường thuyết phục các quốc gia vay vốn đầu tư của nước này để
xây dựng cơ sở hạ tầng. Tính đến cuối năm 2016, các định chế tài chính
chủ chốt của Trung Quốc đã cho vay tổng cộng 292 tỉ đô la Mỹ - theo ước
tính của Đại học Oxford (Anh). Trong đó, vai trò lớn nhất là của Ngân
hàng Đầu tư phát triển Trung Quốc (CDB), Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung
Quốc (CHEXIM), bốn ngân hàng thương mại nhà nước lớn (Big4).
Theo ước tính, việc thực hiện sáng kiến BRI có thể giúp Trung Quốc giảm
16% sản lượng thép dư thừa mỗi năm. Ngoài các ngành xây dựng, những
ngành năng lượng khác cũng được hưởng lợi, đặc biệt là nhiệt điện. Bên
cạnh đó, việc sử dụng lao động Trung Quốc tại các công trình ở nước
ngoài cũng là một lợi ích kinh tế được chú trọng.
Tác động đối với Việt Nam
Rõ ràng, là một trong những cửa ngõ quan trọng của Đông Nam Á, có nhiều
dự án EPC của Trung Quốc, việc Trung Quốc đẩy mạnh “xuất khẩu sáng
kiến” đi kèm với đó là các khoản chào mời vay vốn và sử dụng công nghệ
Trung Quốc là điều có thể nhìn thấy trước. Chủ tịch AIIB khi sang thăm
Việt Nam từng tuyên bố có thể cho khu vực tư nhân của Việt Nam vay không
cần bảo lãnh chính phủ để tránh làm tăng trần nợ công. Trong chuyến
thăm chính thức của ông Tập Cận Bình đến Việt Nam vào tháng 11-2017, hai
nước đã đạt được ba thỏa thuận liên quan đến các sáng kiến kinh tế quan
trọng, bao gồm: (i) Bản ghi nhớ thúc đẩy kết nối giữa khuôn khổ “Hai
hành lang, một vành đai” với sáng kiến “Vành đai, Con đường”; (ii) Bản
ghi nhớ về việc đẩy nhanh tiến độ đàm phán thỏa thuận khung về xây dựng
các khu hợp tác kinh tế qua biên giới: (iii) Bản ghi nhớ về danh mục dự
án hợp tác năng lực sản xuất năm 2017. Những điều này để mở ra cơ hội
hợp tác nhiều hơn giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Khi Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu vốn, điều này có ý nghĩa trong việc
bổ sung nguồn vay để đầu tư phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, các tác
động khác cũng cần được cân nhắc. Đầu tiên, điều này có thể phá vỡ trần
nợ công của Việt Nam. Tiếp đó, các vấn đề lao động Trung Quốc bất hợp
pháp cũng có thể gây ra các tác động tiêu cực về an ninh xã hội. Cuối
cùng, nhưng không kém quan trọng, các tác động môi trường cần được đánh
giá đầy đủ và có chế tài hợp lý.
Tác giả là Giám đốc Chương trình Nghiên cứu kinh tế Trung Quốc (VCES) của Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR)
Theo TBKTSG