Ngân hàng phá sản, tiền gửi của dân được giải quyết thế nào? (VOA)
ĐBQH Hà Sỹ Đồng
(đoàn Quảng Trị) nêu quan điểm: Với quy định phá sản, cần làm rõ việc có
trả đủ gốc và lãi cho người dân hay không. Theo ông Đồng, nếu không trả
đầy đủ cho người dân thì sẽ gây tác hại cho cả nền kinh tế và mất trật
tự an toàn xã hội, dân sẽ mất lòng tin vào ngân hàng và nhà nước, sẽ
đồng loạt rút tiền gửi, gây ảnh hưởng rất lớn đến việc huy động vốn.
Thảo
luận tại Hội trường ngày 26/10 về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD), nhiều đại biểu Quốc hội
(ĐBQH) bày tỏ quan tâm đến quyền lợi của người gửi tiền vẫn chưa được
thể hiện rõ trong dự luật.
Thận trọng khi cho phá sản ngân hàng
Trong
báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung,
Phương án phá sản, có một số ý kiến đề nghị cân nhắc quy định về phương
án phá sản các TCTD trên cơ sở đánh giá tác động một cách kỹ lưỡng, thận
trọng, chặt chẽ khi triển khai phương án này trong thực tiễn.
Ủy
ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, cơ cấu lại TCTD bằng hình thức phá sản
cũng là một hình thức răn đe, động lực để các TCTD nâng cao chất lượng
quản trị điều hành và trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn tiền huy
động, từ đó nâng cao ý thức người gửi tiền và khách hàng lựa chọn TCTD
có uy tín, chất lượng dịch vụ tốt.
Dự thảo Luật quy
định việc phá sản chỉ áp dụng sau khi đã thực hiện các biện pháp khác
nhưng không thành công, đồng thời quy định rõ việc quyết định thực hiện
phương án phá sản TCTD thuộc thẩm quyền của Chính phủ để bảo đảm quyết
định một cách kỹ lưỡng, thận trọng, chặt chẽ.
Có ý kiến cho rằng, cần bổ sung mở rộng thêm đối tượng có quyền nghĩa vụ
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là các chủ nợ lớn, công đoàn, cổ
đông hoặc các nhóm cổ đông sở hữu cổ phần lớn của TCTD.
Theo Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, khi phương án phá sản đã được phê duyệt, để bảo đảm
xử lý kịp thời TCTD yếu kém, không có khả năng phục hồi, dự thảo Luật bổ
sung quy định về quyền của Ban kiểm soát đặc biệt yêu cầu TCTD nộp đơn
yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản của các đối tượng khác thực hiện theo quy định của Luật Phá sản.
ĐBQH Hà Sỹ Đồng
(đoàn Quảng Trị) nêu quan điểm: Với quy định phá sản, cần làm rõ việc có
trả đủ gốc và lãi cho người dân hay không. Theo ông Đồng, nếu không trả
đầy đủ cho người dân thì sẽ gây tác hại cho cả nền kinh tế và mất trật
tự an toàn xã hội, dân sẽ mất lòng tin vào ngân hàng và nhà nước, sẽ
đồng loạt rút tiền gửi, gây ảnh hưởng rất lớn đến việc huy động vốn.
Chia sẻ ý kiến
này, ĐBQH Nguyễn Thị Lệ Thuỷ (đoàn Bến Tre) cho rằng, quyền lợi của
người gửi tiền vẫn chưa được quy định rõ nét trường hợp ngân hàng đổ vỡ,
phá sản, trong khi đây là cổ đông đặc biệt của ngân hàng khi góp 85%
vốn huy động.
Theo quy định
hiện hành, người gửi tiền được chi trả bảo hiểm tiền gửi một mức chung
là 75 triệu đồng cho tất cả các hạn mức gửi tiền trong trường hợp ngân
hàng phá sản. Bà Thủy đánh giá, mức chi trả của bảo hiểm tiền gửi tối đa
75 triệu đồng là quá thấp.
“Không thể người
gửi 100 tỷ đồng và người gửi 100 triệu cũng đều nhận số tiền đền bù cao
bằng như nhau, là 75 triệu đồng. Người gửi tiền phải được nhận lại số
tiền ứng với số đã gửi”, bà Thủy nhấn mạnh.
Có nên dùng ngân sách “cứu” ngân hàng yếu kém?
Nhìn từ góc độ
các TCTD, DDBQH Nguyễn Văn Thắng (đoàn Hà Nội), Chủ tịch HĐQT Ngân hàng
Vietinbank phân tích: Trường hợp cho vay đặc biệt nhưng không thu hồi đủ
thì tiền thiếu hụt sẽ phải xin ý kiến Quốc hội, trong khi tiền đã đưa
ra trả cho người gửi tiền rồi. Với các khoản vay không thu hồi được thì
chưa rõ ai sẽ phải chịu trách nhiệm.
Còn nếu cho phép
sử dụng nguồn lực Nhà nước để hỗ trợ chi trả tiền gửi vượt hạn mức thì
sẽ có khoảng trống khi ngân hàng phá sản, không đủ tiền trả cho người
gửi, sẽ gây mất an toàn hệ thống. Ông Thắng đề nghị cho phép được sử
dụng nguồn lực Nhà nước hỗ trợ bồi thường tín dụng trong trường hợp phá
sản.
Bày tỏ quan điểm
không dùng ngân sách nhà nước xử lý các TCTD yếu kém, ĐBQH Đinh Duy Vượt
(đoàn Gia Lai) lưu ý, cần phải có nghiên cứu toàn diện, tùy thời điểm
giai đoạn nhằm đảm bảo quyền lợi người gửi tiền, trách tình trạng rút
tiền đồng loạt, gây hiệu ứng domino.
Đồng quan điểm ý
kiến này, ĐBQH Vũ Thị Lưu Mai (đoàn Hà Nội), Uỷ viên thường trực Ủy ban
Tài chính ngân sách của Quốc hội chỉ rõ: Việc dự luật nêu không sử dụng
ngân sách xử lý ngân hàng yếu kém, nhưng thực tế việc đưa ra các giải
pháp “giải cứu” số nhà băng này như cho vay các khoản vay đặc biệt với
mức ưu đãi lãi suất 0%, hay được miễn phí bảo hiểm tiền gửi… thì đã dùng
ngân sách gián tiếp để cứu ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt.
Trường hợp các
ngân hàng yếu kém không thể phục hồi, vẫn phá sản và không có khả năng
thanh toán các khoản vay thì ai sẽ chịu trách nhiệm? Tiền ngân sách bỏ
ra cho vay lấy lại thế nào?”, bà Mai nói. Vì thế, theo đại biểu Mai, đã
quy định không sử dụng ngân sách cứu ngân hàng yếu kém thì dù trực tiếp
hay gián tiếp đều không nên.
Tán thành quan
điểm này, ĐBQH Trương Trọng Nghĩa (đoàn TP HCM) cho hay, nếu không dùng
ngân sách trực tiếp, mà lại gián tiếp giải cứu qua loạt biện pháp thì
phải tính toán cụ thể sẽ đạt được hiệu quả thế nào sau thời gian xử lý.
Giải trình trước
Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Lê Minh Hưng cho biết, dự
luật đã cho phép Chính phủ áp dụng các giải pháp đặc biệt, do đó có thể
quy định chi trả vượt hạn mức cho người gửi tiền trong trường hợp đặc
biệt.
Về phương án phá
sản các TCTD yếu kém, Thống đốc NHNN cho biết sẽ cần báo cáo thêm. Với
vai trò trung gian tài chính, các TCTD khi gặp khó khăn có thể dẫn tới
rủi ro rút tiền hàng loạt, gây ra hiệu ứng dây truyền, ảnh hưởng nghiêm
trọng tới người rút tiền. Do đó, Chính phủ cũng như cơ quan soạn thảo đã
rà soát kỹ các phương án phá sản.
Theo ông Lê Minh
Hưng, phá sản chỉ nên xem là biện pháp cuối cùng, khi những phương án
khác như phục hồi, chuyển giao, giải thể,... không thực hiện được./.
Trần Ngọc