Lại chuyện quốc tịch Việt Nam ! (Lữ Giang)
Trên nguyên tắc chỉ có thể
tước bỏ một quốc tịch đối với những người song tịch mà thôi. Đối với
những người chỉ có một quốc tịch Việt Nam duy nhất, việc tước bỏ quốc
tịch của họ, cho dù họ đã phạm bất cứ tội phạm nào, sẽ bị coi là vi phạm
Công ước the Hague ngày 12/4/1930.
Phóng
viên Cát Linh của Đài Á Châu Tự do (RFA) cho biết ngày 3/6/2017, Giáo
sư Phạm Minh Hoàng có kể lại sự việc xảy ra cho ông cách đó 2 ngày như
sau :
"Ông
Tổng lãnh sự Pháp có mời tôi lên để trao đổi một số chuyện, thì ông nói
là có một tin rất xấu cho tôi, là Nhà nước Việt Nam, qua trung gian là
Chủ tịch nước Trần Đại Quang vào ngày 17 tháng 5 đã ký một văn bản tước
quốc tịch của tôi, và chuyện này chắc chắn sẽ dẫn đến việc trục xuất tôi
ra khỏi Việt Nam vì tôi có song tịch Pháp – Việt".
Đây
là một vấn đề cần được làm sáng tỏ vì nhiều trường hợp tương tự sẽ còn
xảy ra đối với nhiều người Việt khác. Nhưng đây là vấn đề về luật lý,
không thể nói theo cảm tính. Muốn làm sáng tỏ, không thể chỉ căn cứ vào
Luật quốc tịch Việt Nam mà còn phải căn cứ vào "Công ước Hague về một số
Vấn đề liên quan đến sự tranh chấp về Luật quốc tịch" được ban hành
ngày 12/4/1930, "Công ước Liên hiệp quốc về việc giảm bớt tình trạng vô
quốc tịch" ngày 30/8/1961, các học lý, án lệ và tục lệ quốc tế về quốc
tịch…, chứ không thể cãi chày cãi cối. Vấn đề này đã được chúng tôi bàn
nhiều lần kể từ khi nhà cầm quyền Việt Nam ban hành luật quốc tịch đầu
tiên ngày 28/6/1988. Tuy nhiên, để độc giả có thể thấy rõ vấn đề hơn,
trước hết chúng tôi xin trình bày tóm lực về trường hợp của ông Phạm
Minh Hoàng.
Vài nét về vụ án Phạm Minh Hoàng
Phạm
Minh Hoàng sinh ngày 8/8/1955 tại Vũng Tàu, con của một viên chức cao
cấp thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1973 ông được
đi du Pháp, tốt nghiệp Cao học ngành Cơ học ứng dụng. Năm 2000 ông trở
về Việt Nam, làm giảng viên hợp đồng dạy môn Toán học ứng dụng tại
Trường Đại học Bách khoa Sài Gòn. Trong thời gia này, với bút hiệu Phan
Kiến Quốc, ông viết nhiều bài đăng trên các websites, kêu gọi chính
quyền thực thi dân chủ và phản đối việc giao cho nhà thầu Trung Quốc
khai thác mỏ Bauxite ở Tây Nguyên.
Ngày
13/8/2010, Phạm Minh Hoàng bị công an bắt điều tra về các họat động
chống chính quyền. Ngày 9/9/2010 Đảng Việt Tân ra thông cáo công bố 4
đảng viên Việt Tân đã bị công an bắt giữ trong thời gian qua, bao gồm
ông Phạm Minh Hoàng, mục sư Dương Kim Khải, bà Trần Thị Thúy và ông
Nguyễn Thành Tâm.
Nhiều
người cho rằng đây là một hành động tai hại của Việt Tân, biến các cộng
sự viên thành vật tế thần để "biểu dương khí thế" (giống IS đang làm
hiện nay), không khác gì "thưa ông tôi ở bụi này", làm cho các người
liên hệ không còn đường chối cãi. Đảng Việt Tân giải thích rằng đây là
một cách "ngăn chặn những thủ đoạn ngược đãi" những người này và gia
đình họ, nhưng không ai chấp nhận.
Ngày
29/9/2010, Bộ Công an đã tổ chức họp báo tuyên bố quyết định khởi tố,
bắt tạm gian Phạm Minh Hoàng, về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền.
Ngày
10/8/2011, Tòa án Sài Gòn đã đưa Phạm Minh Hoàng ra xét xử sơ thẩm về
tội "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân" theo khoản 2 Điều 79 Bộ
luật Hình sự. Bản cáo trạng nói năm 1996, Phạm Minh Hoàng được Nguyễn
Ngọc Đức là "Trung ương ủy viên" của tổ chức Việt Tân ở Paris móc nối và
đã gia nhập tổ chức này năm 1998. Năm 2000, Phạm Minh Hoàng về nước làm
giảng viên Đại học Bách khoa Sài Gòn.
Tháng
11/2009, Phạm Minh Hoàng đã lôi kéo Lê Thị Kiều Oanh và Nguyễn Thanh
Hùng đi Malaysia tham dự khóa học do Việt Tân tổ chức. Khóa học này do
Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Quốc Quân và Nguyễn Thị Thanh Vân ở Pháp phụ
trách. Từ tháng 1 đến tháng 5/2010, Phạm Minh Hoàng cùng ba thành viên
trong tổ chức là Phạm Duy Khánh, Jolie Trang Huỳnh và Huỳnh Châu, tổ
chức hai khóa học, tổng cộng 4 lớp học về kỹ năng tuyên truyền cho tổ
chức Việt Tân tại Việt Nam… Ngoài ra, Phạm Minh Hoàng còn viết nhiều bài
trong đó có 33 bài có nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước rồi gửi cho Việt Tân đăng và phát tán trên các mạng
internet nhằm tuyên truyền, lôi kéo, kích động, tập hợp lực lượng hoạt
động nhằm lật đổ chế độ hiện tại.
Bào
chữa cho bị cáo Hoàng, luật sư Trần Vũ Hải cho rằng Hoàng về nước và tổ
chức khóa học "kỹ năng phần mềm" là tự thân, không phải do Việt Tân chỉ
đạo ; các bài viết của Hoàng cũng không phải "nhận lệnh" từ tổ chức này
và đã bị lợi dụng để phát tán lên mạng. Nhưng Tòa tuyên phạt Phạm Minh
Hoàng 3 năm tù và 3 năm quản chế tại địa phương.
Các
đối tượng khác trong vụ án này như Nguyễn Thị Thanh Vân, Nguyễn Ngọc
Đức, Phạm Duy Khánh do đang sống ở nước ngoài, khi nào bắt được sẽ xét
xử sau.
Ông
Phạm Minh Hoàng đã kháng cáo. Ngày 29/11/2011 Tòa án Nhân dân Tối cao
tại Thành phố Sài Gòn đã tuyên bố chấp nhận kháng cáo của Hoàng, giảm án
cho Hoàng từ 3 năm tù xuống còn 17 tháng.
Ngày
13/1/2012, ông Hoàng đã được trả tự do. Tháng 3/2016, ông Hoàng lại bị
công an câu lưu tại Sài Gòn do tổ chức lớp học về lịch sử các cuộc đấu
tranh ở Việt Nam và về Hiến pháp.
Vấn đề quốc tịch của Phạm Minh Hoàng
Ngày
1/6/2017, Tổng lãnh sự sứ quán Pháp tại Sài Gòn đã thông báo cho ông
Phạm Minh Hoàng biết Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã ký quyết định số
832/QĐ-CTN ngày 17/5/2017 tước quốc tịch Việt Nam của ông. Tại cuộc họp
báo thường kỳ của Bộ Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 15/6/2017, phát ngôn
viên Lê Thị Thu Hằng tuyên bố ông Hoàng đã phạm tội xâm phạm an ninh
quốc gia của Việt Nam nên việc tước quốc tịch Việt Nam đối với ông ta là
đúng pháp luật.
Hôm
15/6/2017, ông Hoàng gửi đơn lên Bộ tư pháp khiếu nại về quyết định
ngày 17/5/2017 của Chủ tịch Trần Đại Quang, viện lý do "không có cơ sở
pháp luật". Theo ông, Điều 31 Luật quốc tịch Việt Nam ấn định việc tước
quốc tịch chỉ áp dụng cho hai đối tượng : "Công dân Việt Nam cư trú ở
nước ngoài (khoản 1) ; và người đã nhập quốc tịch Việt Nam theo Điều 19
(Khoản 2), tức chỉ công dân nước ngoài và người không có quốc tịch đang
thường trú ở Việt Nam (Điều 19)". Ông không thuộc hai loại đối tượng đó,
nên việc tước quốc tịch của ông là "không có cơ sở pháp luật, vi phạm
Điều 2 của Luật quốc tịch Việt nam về quyền đối với quốc tịch công dân
Việt Nam không bị tước quốc tịch Việt Nam".
Hôm
3/6/2017, ông Phạm Minh Hoàng đã gởi đến Tòa đại sứ Pháp ở Hà Nội tuyên
bố thực thi quyền từ bỏ quốc tịch Pháp chiếu theo điều 23 Bộ luật dân
sự Pháp. Ông viết : "Vì lý do trên, tôi xin ông vui lòng xem như tôi
không còn quốc tịch Pháp và chỉ giữ lại quốc tịch Việt Nam".
Trước
khi bàn về việc tước bỏ quốc tịch Việt Nam của ông Phạm Minh Hoàng,
chúng tôi xin nói qua về các nguyên tắc căn bản của luật quốc tế về quốc
tịch và luật quốc tịch Việt Nam.
Các nguyên tắc của luật quốc tế về quốc tịch
"Công
ước Hague về một số vấn đề liên quan đến sự tranh chấp về Luật quốc
tịch" (Convention on Certain Questions relating to the Conflict of
Nationality Laws) ngày 12/4/1930 đã đưa ra một số nguyên tắc tổng quát
về luật quốc tịch, có thể tóm lược như sau :
1. Mọi người đều có quyền có quốc tịch và quyền thay đổi quốc tịch, không ai có quyền tước bỏ hai quyền đó.
2. Mỗi người có thể có hai hay nhiều quốc tịch và một quốc gia không được dùng quyền bảo vệ ngoại giao để ngăn cản điều này.
3. Một người thụ đắc hai quốc tịch có thể xin từ bỏ một quốc tịch mà mình không muốn.
4.
Mặc dầu mỗi người có quyền có nhiều quốc tịch, nhưng quốc gia đệ tam
(tức quốc gia mà đương sự không có liên hệ về quốc tịch) chỉ công nhận
một quốc tịch duy nhất mà thôi, đó là quốc tịch của quốc gia nơi đương
sự có trú sở chính và thường xuyên hay quốc tịch của quốc gia mà đương
sự trong thực tế có quan hệ chặt chẽ nhất.
5.
Một người có hai quốc tịch, khi đã từ bỏ một quốc tịch hợp lệ, quốc
tịch còn lại phải được quốc gia mà đương sự muốn có quốc tịch nhìn nhận,
cho dù đương sự đang có trú sở chính và thường xuyên tại quốc gia mà
đương sự đã từ bỏ quốc tịch.
"Công
ước về việc giảm bớt tình trạng vô quốc tịch" (Convention on the
Reduction of Statelessness) Liên Hiệp Quốc ngày 30/8/1961 dự liệu rằng
các quốc gia kết ước sẽ ban quốc tịch của nước mình cho những người sinh
ra trên lãnh thổ của nước đó nhưng vì một lý do nào đó bị coi là vô
quốc tịch.
Khái quát về Luật quốc tịch Việt Nam
Từ
30/4/1975 đến nay, khi số người Việt bỏ nước ra đi ngày càng đông, nhà
cầm quyền đã ban hành và sửa đổi luật quốc tịch đến 4 lần, đầu tiên
là luật quốc tịch ngày 28/6/1988, rồi đến luật quốc tịch ngày
20/5/1998 và sau đó là luật quốc tịch ngày 13/11/2008 được bổ sung
bởi luật ngày 24/6/2013. Hai luật đầu không chấp nhận chế độ song tịch
hay đa tịch, coi tất cả những người có quốc tịch Việt Nam dù đã thủ đắc
hay xin nhập bất cứ quốc tịch nào trên thế giới vẫn được coi là người
Việt Nam. Những ai muốn bỏ quốc tịch Việt Nam phải làm đơn xin thôi quốc
tịch Việt Nam. Mục tiêu của sự quy định này là giành quyền quản lý các
hoạt động của tất cả những người Việt đang định cư ở nước ngoài, nhất
là các hoạt động chính trị.
Từ
năm 1993 đến nay, chúng tôi đã dựa theo các nguyên tắc của luật quốc
tế, tục lệ quốc tế, án lệ quốc tế và luật đối chiếu về quốc tịch, viết
rất nhiều bài nhận xét về những phi lý và rắc rối của luật quốc tịch
Việt Nam.
Đến
năm 2008, chính quyền mới ban hành Luật số 24/2008/QH12 ngày 13/11/2008
công nhận chế độ song tịch nhưng lại tạo ra một rắc rối khác, đó
là buộc phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam trong thời hạn 5 năm kể từ
ngày luật này có hiệu lực, nếu không sẽ mất quốc tịch Việt Nam. Sự quy
định này sẽ biến một số người Việt thành vô quốc tịch nếu đến ngày mãn
hạn đăng ký họ chưa nhập một quốc tịch nào khác. Như vậy sẽ vi phạm Công
ước The Hague ngày 12/4/1930 về việc ngăn chặn tình trạng vô quốc tịch.
Chúng tôi đã cảnh cáo rất mạnh mẽ về khuyết điểm lớn này.
Ngày
24/6/2013 chính quyền Việt Nam đã ban hành luật số 56/2014/QH13 bỏ quy
định về thời hạn phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam (trước đây là đến
ngày 01.7.2014) và bỏ quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài mặc
nhiên mất quốc tịch nếu không đăng ký giữ quốc tịch. Đây là một sự sửa
đổi phù hợp với luật quốc tế.
Việc tước quốc tịch Việt Nam của ông Hoàng
Điều 31 của Luật quốc tịch Việt Nam ngày 13/11/2008 có quy định Căn cứ tước quốc tịch Việt Nam :
1. Công
dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu
có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Người
đã nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 19 của Luật này dù cư
trú ở trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng có thể bị tước quốc tịch
Việt Nam, nếu có hành vi quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều
luật này đã đặt ra những quy định rắc rối. Trên nguyên tắc chỉ có thể
tước bỏ một quốc tịch đối với những người song tịch mà thôi. Đối với
những người chỉ có một quốc tịch Việt Nam duy nhất, việc tước bỏ quốc
tịch của họ, cho dù họ đã phạm bất cứ tội phạm nào, sẽ bị coi là vi phạm
Công ước the Hague ngày 12/4/1930.
Ông
Phạm Minh Hoàng là công dân Việt Nam đã từng cư trú ở Pháp và nhập quốc
tịch Pháp. Năm 2000 ông trở về Việt Nam và theo luật số 56/2014/QH13
ngày 24/6/2014, ông vẫn còn giữ quốc tịch Việt Nam. Như vậy ông có hai
quốc tịch, vừa Việt vừa Pháp. Khi xuất ngoại, nếu ông dùng hộ chiếu của
Pháp, ông được coi là người Pháp và nếu ông dùng hộ chiếu Việt Nam ông
được coi là người Việt Nam. Tuy giữ song tịch có lợi, nhưng khi bị truy
tố và trừng phạt về các tội vi phạm an ninh quốc gia, nhà cầm quyền sẽ
dựa vào điều 31 của luật Quốc tịch Việt Nam để tước quốc tịch Việt Nam
của ông. Lúc đó ông còn có quốc tịch Pháp nên không vi phạm vi Công
ước The Hague ngày 12/4/1930.
Ông
Hoàng thấy rõ điều đó nên hôm 3/6/2017 ông đã làm đơn xin bỏ quốc tịch
Pháp, nhưng đã quá muộn vì mọi chuyện đã xong rồi. Chúng tôi tin chắc
chính phủ Pháp cũng sẽ không cho ông từ bỏ quốc tịch Pháp vì nếu làm như
vậy là vi phạm Công ước The Hague ngày 12/4/1930, biến ông Hoàng thành
vô quốc tịch.
Bây giờ ngồi tranh luận với Bộ tư pháp về áp dụng điều 31 của Luật quốc tịch Việt Nam, ai sẽ xét xử cho ông Phạm Minh Hoàng ?
Như
ý kiến của nhiều người, Việt Nam không còn là đất dụng võ của ông nữa,
cách tốt nhất là ông nên bỏ quốc tịch Việt Nam và quay về Pháp, vì rất
nhiều người đang muốn được như ông mà không được. Ở Pháp, ông sẽ có
nhiều phương tiện để giúp đất nước thoát khỏi nghèo đói và áp bức nếu
ông thực lòng muốn làm và biết cách làm điều đó.
Ngày 22/6/2017
Lữ Giang