Trật tự thế giới nào đang bị đe dọa ? (Nguyễn Gia Kiểng)
Không
phải là tư tưởng chính trị đã xuống cấp, những ý kiến soi đường vẫn
được nêu ra tại Mỹ cũng như tại Tây Âu và trên khắp thế giới, nhưng
chúng không còn gây được sự chú ý trong một thế giới do giới tài chính
và ngân hàng thao túng.
Bản đồ hiện diện của những đảng cực hữu ở Châu Âu
Nước
Pháp vừa có một tổng thống mới. Cuộc bầu cử vòng đầu ngày 23/4 đã chọn
hai ứng cử viên cho vòng chung kết. Ngày chủ nhật 7/5 vừa qua cử tri
Pháp được chọn giữa Marine Le Pen và Emmanuel Macron. Họ đã chọn Macron
với đa số áp đảo 66% - 34%.
Macron
là một thanh niên 39 tuổi, đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, trưởng
thành trong giới ngân hàng, chưa từng giữ một chức vụ dân cử nào, dù đã
từng là bộ trưởng kinh tế trong hai năm với một thành tích mà chính ông
cũng không muốn nhắc lại. Vì không có đảng - trước đây có ghi tên vào
Đảng Xã Hội trong ba năm nhưng rồi không tham gia nữa - Macron đã cấp
tốc thành lập một "phong trào" có tên là "Đi tới !" (En marche !) để hy
vọng giành được đa số trong quốc hội sau khi đắc cử tổng thống. Hy vọng
này khá mong manh và Macron có thể sẽ phải làm việc với một quốc hội mà
ông không kiểm soát được. Cộng thêm với kinh nghiệm ít ỏi của ông, sự
thiếu phối hợp giữa chính phủ và quốc hội sẽ đặt nước Pháp trước một
tương lai khó khăn đầy bất trắc.
Tuy
vậy đa số người Pháp đã thấy phải ủng hộ Macron bởi vì nếu Marine Le
Pen đắc cử thì sẽ là một tai họa lớn cho cả nước Pháp lẫn Châu Âu. Bà Le
Pen đứng đầu đảng cực hữu Mặt Trận Quốc Gia (Front National) do cha bà,
ông Jean-Marie Le Pen, xây dựng lên. Tổ chức này rập khuôn một cách
công khai theo Phong Trào Xã Hội Ý (Movimente
Sociale Italiano - MSI), một tổ chức tiếp nối Đảng Quốc Gia Phát Xít
(Partito Nazionale Fascista) do Moussolini lập ra và vị cấm sau Thế
Chiến II.
Đảng Quốc Gia Phát Xít (Partito Nazionale Fascista) do Moussolini thành lập năm 1921
Mặt
Trận Quốc Gia của Le Pen không có dự án chính trị, nó chỉ có những chủ
trương dân túy, kỳ thị và phản dân chủ như dành ưu tiên công việc làm
cho người Pháp, không tiếp nhận di dân, chỉ săn sóc sức khỏe miễn phí
cho người Pháp, mạnh tay hơn với Hồi Giáo, bắt tay với chế độ mafia của
Putin tại Nga và chế độ hung bạo Al Assad tại Syria, nhất là ra khỏi
khối tiền tệ chung Euro và Liên Hiệp Châu Âu v.v. Nói chung là một chủ
trương tệ hại và nguy hiểm cho hòa bình, kinh tế, xã hội, chính trị, văn
hóa và đạo đức.
Cuộc
tranh luận giữa Le Pen và Macron hôm 3/5 đã hạ cấp ngoài mọi dự đoán.
Nó giống như một cuộc cãi lộn giữa chợ trời. Macron đã thắng cử nhưng Le
Pen cũng đã được 34% số
phiếu và đó sẽ là một vết nhơ trên mặt nước Pháp. Quốc gia thường tự
hào là quê hương của dân chủ và nhân quyền, là đất dung thân, terre d'asile, của những nạn nhân của áp bức giờ đây có trên một phần ba dân số ủng hộ một đảng phát xít.
Đảo ngược các giá trị ?
Pháp
không phải là một trường hợp đặc biệt. Tại Áo vài tháng trước đây ứng
cử viên của đảng cực hữu FPO suýt nữa đắc cử tổng thống, chỉ thua suýt
soát ứng cử viên Đảng Xanh. Cũng như tại Pháp hai đảng truyền thống thay
nhau cầm quyền từ sau Thế Chiến II đều bị loại với nguy cơ sẽ bị xóa bỏ
luôn. Hai tháng trước đây tại Hà Lan, nước được coi như một mẫu mực của
dân chủ và bao dung, đảng cực hữu "Tự Do" PVV cũng đã về hạng nhì trong
cuộc bầu cử quốc hội (Tự do ở đây phải được hiểu là bất chấp đạo đức
chính trị). Tại Đức Liên Minh Dân Chủ Thiên Chúa Giáo CDU/CSU đang cầm
quyền dù rất thành công về kinh tế và xã hội cũng đang bị nao núng ;
Đảng 'Giải Pháp Thay Đổi Cho Nước Đức" (Alternative fur Deutschland AfD)
vừa mới thành lập được bốn năm với chủ trương dân túy có thể sẽ giành
được 12% số phiếu trong cuộc bầu cử quốc hội sắp tới theo nhiều thăm dò
dư luận. Taị Anh phe bảo thủ chống hội nhập với Âu Lục đã giành được
thắng lợi, giáng cho Liên Hiệp Châu Âu một đòn choáng váng với biến cố BreXít.
Tại Ý khuynh hướng dân túy cực hữu xuất phát từ MSI rối loạn không phải
vì bị mất quần chúng mà vì chia rẽ. Ngoạn mục nhất vẫn là tại Mỹ, tổng
hành dinh của nền dân chủ thế giới. Donald Trump, một nhân vật lỗ mãng
với văn hóa chính trị sơ đẳng, hoàn toàn không có một ưu tư nhân bản nào
đã đắc cử tổng thống với khẩu hiệu "Nước Mỹ trước hết" (America first !).
Nói
chung khuynh hướng dân túy cực hữu đã phát triển mạnh mẽ tại các nước
tiên tiến - Mỹ và Tây Âu - cho tới nay vẫn được coi là thành trì của các
giá trị tự do, dân chủ và nhân quyền.
Tất
cả các lực lượng này, ở những mức độ khác nhau đều có chung một số đặc
tính là triệt thoái về bên trong biên giới quốc gia và khai thác tinh
thần dân tộc hẹp hòi, chống lại phong trào toàn cầu hóa, chống lại các
khối hợp tác quốc tế, không tiếp nhận những người di dân dù là để tránh
bạo lực và chiến tranh, không quan tâm đến các vi phạm nhân quyền trên
thế giới và nhìn quan hệ giữa các quốc gia trước hết như một tương quan
lực lượng. Tất cả cũng hầu như không quan tâm đến môi trường. Dầu vậy
chúng đã lôi kéo được cả những người có học vị và kiến thức cao : Đảng
Giải Pháp Thay Thế tại Đức qui tụ nhiều giáo sư đại học, Mặt Trận Quốc
Gia tại Pháp cũng thu hút được nhiều người tốt nghiệp những trường danh
tiếng. Những gì đang diễn ra tại Mỹ và Châu Âu có tầm vóc của một khuynh
hướng đảo ngược các giá trị.
Sau
khi bức tường Berlin sụp đổ rất nhiều người đã lạc quan cho rằng các
giá trị dân chủ và văn minh từ nay đã trở thành phổ cập, nhiều người nói
tới một "bổn phận phải can thiệp" khi an ninh và phẩm giá con
người bị đe dọa, mặc nhiên coi biên giới quốc gia không thể là tường
thành qui định một vùng lộng hành an toàn cho các tập đoàn độc tài hung
bạo. Có người còn cho là lịch sử đã chấm dứt bởi vì từ nay, khi dân chủ
đã toàn thắng không còn gì quan trọng nữa. Nhưng rồi người ta đã chứng
kiến cuộc phản công dữ dội của các khuynh hướng tưởng đâu đã thuộc hẳn
về quá khứ. Điều đáng ngạc nhiên là các lực lượng cực hữu này tuy cùng
chủ trương chống lại các kết hợp quốc tế nhưng lại hỗ trợ nhau – Trump,
Le Pen, Putin - trong một thứ "quốc tế chống hợp tác". Trật tự thế giới
đang bị đe dọa. Một thân hữu hỏi tôi : "phải chăng làn sóng dân chủ thứ
tư mà các anh nói tới trong dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai
đang bị đảo ngược ?" (1).
Trật tự thế giới nào ?
Nhưng nếu chúng ta nhìn lại một cách bình tĩnh thì sự thực không phải như vậy.
Trước
hết, trật tự thế giới nào đang bị đe dọa ? Có thể là chúng ta đã vừa
lạc quan vừa thiếu cảnh giác. Dưới mắt đại bộ phận những người có thiện
chí trật tự thế giới hiện nay là trật tự dân chủ đặt nền tảng trên các
giá trị hòa bình, tự do, dân chủ, nhân quyền, nhà nước pháp trị, đối
thoại, hợp tác và liên đới. Nhưng đó là một dự đoán lạc quan, dù rất có
cơ sở, về hướng đi tất yếu của thế giới chứ chưa hẳn là sự thực.
Sự
thực là cái trật tự lý tưởng đó đã bị vi phạm từ lâu rồi. Khi Bill
Clinton đắc cử tổng thống Mỹ với khẩu hiệu "chỉ làm kinh tế" (economy, stupid !)
ông đã bày tỏ sự ràng buộc nào với trật tự dân chủ ? Mấy ai đã ngạc
nhiên và lo lắng vì sự hạ thấp chính trị để đồng hóa nó với kinh tế ?
Phần lớn các trí thức cánh tả còn hoan nghênh và gần đây còn ủng hộ
Hillary Clinton dù quan điểm chính trị của bà không khác gì chồng.
Barack Obama có coi dân chủ và nhân quyền là các giá trị phổ cập không
khi trong bài diễn văn nhậm chức, rồi tại Cairo, ông long trọng tuyên bố
sẵn sàng bắt tay với các chế độ độc tài vì không một quốc gia nào có
quyền quyết định thế nào là một chế độ chính trị tốt cho một quốc gia
khác ? Tôi đã phản ứng bằng một bài cảnh giác đối với Obama nhưng chưa
hề thấy một ai, Việt Nam hay người nước ngoài, chia sẻ sự lo âu này (2).
Sau đó ít lâu Obama được giải Nobel Hòa Bình ! Cũng đừng quên là tổng
thống Pháp Jacques Chirac trước và trong khi cầm quyền đã nhiều lần
tuyên bố rằng dân chủ là một xa xỉ phẩm đối với các nước chưa phát
triển.
Sự
xuống cấp của tư tưởng chính trị tại Hoa Kỳ và Châu Âu đã diễn ra từ
lâu rồi và nó ngày càng khuyến khích sự hình thành của một trật tự thế
giới mới : trật tự tài chính, nghĩa sự thống trị của đồng tiền. Chính
trong bối cảnh này là những người giầu có và được sự ủng hộ của giới tài
phiệt như Donald Trump và Emmanuel Macron đã giành được thắng lợi. Các
đảng quốc gia dân túy cực hữu không hẳn là sự phản bác trật tự dân chủ,
chúng chỉ là hậu quả tự nhiên của sự lơ là vốn đã có nhưng không được
cảnh giác từ gần ba thập niên qua với đạo đức chính trị và các giá trị
dân chủ
Một cuộc khủng hoảng ngắn và giới hạn trong không gian
Câu
hỏi kế tiếp là tình trạng này nghiêm trọng tới mức nào và có thể đảo
ngược làn sóng dân chủ thứ tư vừa xuất hiện từ Mùa Xuân Ả Rập không ?
Câu
trả lời dứt khoát là không. Thực ra hiện tượng trỗi dậy của các lực
lượng cực hữu với tinh thần dân tộc hẹp hòi chỉ xuất hiện ở Hoa Kỳ và
Tây Âu, nghĩa là những nước dân chủ giầu mạnh, vì một lý do mà chúng ta
sẽ thảo luận trong phần sau. Trong phần còn lại của thế giới, nghĩa là
gần chín phần mười thế giới, cuộc đấu tranh vì dân chủ vẫn tiếp tục mạnh
lên. Venezuela, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Trung Quốc, Việt Nam là những
thí dụ điển hình. Điều thực sự đã thay đổi và cần được nhận diện là tự
do không còn là ngọn đuốc do Mỹ và các nước Châu Âu đem đến để soi sáng
thế giới nữa mà đã trở thành ngọn đuốc chung của cả nhân loại. Điều này
cũng không mới. Từ nhiều năm nay các nước dân chủ tiên tiến đã chỉ bày
tỏ một quan tâm tối thiểu đối với những vi phạm nhân quyền. Việc chính
quyền cộng sản Việt Nam đàn áp hung bạo những người dân chủ đã không hề
ngăn cản Obama đến thăm Việt Nam, thân thiện bắt tay Nguyễn Phú Trọng và
Trần Đại Quang, rồi tươi cười đi ăn bún chả và uống bia, không khác
Bill Clinton và George W. Bush trước đó. Không có lý gì để hốt hoảng.
Cuộc
trỗi dậy này, nếu nhìn một cách bình tĩnh, cũng chỉ là ngọn lửa rơm
không thể tiếp tục lâu. Thắng lợi của Trump tại Mỹ cũng như sự thành
công tương đối của Marine Le Pen tại Pháp và các đảng dân túy khác tại
Châu Âu là do một sự gặp gỡ rất ô hợp của những thành phần rất khác
nhau, với những động cơ khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn với nhau. Có
những người phẫn nộ trước một thế giới do giới tài phiệt thao túng, có
những người cảm thấy bị gạt ra ngoài lề một thế giới thay đổi quá nhanh,
có những người đòi xét lại một phong trào toàn cầu hóa quá xô bồ và
những kết hợp khu vực mà họ không hiểu rõ lý do, có người gắn bó với căn
cước dân tộc và chưa thể thích nghi với một khái niệm quốc gia mới, có
những người chưa hiểu vì sao phải quá lo âu cho môi trường đến nỗi phải
hy sinh một số hoạt động công nghiệp khiến một số người lâm vào cảnh
thất nghiệp. Sau cùng cũng có những người quá thất vọng với một giai cấp
chính trị đã mất phẩm chất và không ngang tầm với đòi hỏi của tình
huống mới. Một tập hợp như vậy không thể kéo dài. Nó chỉ thể hiện một
cuộc khủng hoảng tinh thần nhất thời tại Mỹ và Tây Âu.
Khi thực tại thay đổi nhanh hơn tư tưởng
Sau cùng đâu là lý do của cuộc khủng hoảng niềm tin và định hướng này ?
Một
điều rất không bình thường từ gần ba mươi năm nay là sự thiếu hụt tư
tưởng trong một thế giới thay đổi hàng ngày, hàng giờ. Cho tới nay,
trong lịch sử thế giới, mọi cuộc cách mạng lớn đều đã được một phong
trào tư tưởng đi trước, báo trước, soi đường và hướng dẫn để con người
có thể hiểu và chuẩn bị chờ đợi những gì sắp đến, để đừng bỡ ngỡ, hốt
hoảng. Từ ba thập niên qua, không những bức tường Berlin và chủ nghĩa
cộng sản sụp đổ mà, quan trọng hơn, còn diễn ra cuộc cách mạng tri thức
và truyền thông khiến thế giới nhỏ lại như một ngôi làng nhỏ, mỗi người
đều có thể biết tức khắc những gì vừa xẩy ra trên khắp trái đất. Thay
đổi quá lớn và quá nhanh nhưng chúng ta đã không có một phong trào tư
tưởng tương xứng. Hành động đã đi trước tư tưởng.
Các công dân của các quốc gia không được giải thích để chấp nhận những gì sẽ xẩy ra và chuẩn bị cho tương lai.
Một
thí dụ là câu hỏi khái niệm quốc gia sẽ phải được hiểu như thế nào sau
khi nó không còn có thể được hiểu như trước đây, nghĩa là một lãnh thổ,
một biên giới, một ngôn ngữ, một văn hóa, một chính quyền và một chủ
quyền riêng biệt ? Nhân dân các nước tiên tiến - thỏa mãn và tự hào với
quốc gia của họ - không được chuẩn bị tinh thần để chấp nhận rằng từ nay
phải hiểu quốc gia theo một nghĩa mới, nghĩa là như một tình cảm, một
không gian liên đới và một dự án tương lai chung (3). Không ngạc nhiên
nếu họ lo âu và phẫn nộ.
Một
thí dụ khác là phong trào toàn cầu hóa và những hợp tác khu vực dĩ
nhiên phải giúp các dân tộc nghèo và chậm tiến dân dần bắt kịp các dân
tộc giầu mạnh và tiên tiến. Các nước chưa phát triển dĩ nhiên phải tăng
trưởng kinh tế nhanh hơn các nước đã phát triển nếu chúng ta tin, như
mọi người đều đồng ý, rằng chỉ có một giống người với những khả năng bẩm
sinh ngang nhau và tất cả nhân loại phải là anh em trong một thế giới
thân thiện. Nhưng nhân dân các nước tiên tiến đã không được giải thích
để hiểu rằng đó là điều đáng mong ước dù chắc chắn phải tạo ra một vài
đảo lộn, và nhiều người cảm thấy bị thiệt thòi.
Một
thí dụ cụ thể và hùng hồn hơn nữa là Liên Hiệp Châu Âu. Đây là công trình
lớn nhất và đẹp nhất trong lịch sử thế giới. Một thực thể văn hóa, chính
trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật lớn nhất thế giới đã hình thành mà
không cần một tiếng súng. Trong một thời gian kỷ lục Liên Hiệp Châu Âu
đã qui tụ 28 quốc gia, trong đó một khu vực không biên giới với một đồng
tiền chung đã được thành lập và ngày càng mở rộng thêm. Tuy vậy, thế
giới và người Châu Âu vẫn chưa biết dứt khoát là Liên Hiệp Châu Âu sẽ là
một liên bang hay một kết hợp của các quốc gia tự chủ. Đã thế Liên Hiệp
Châu Âu còn là cái lưng tiện lợi để các chính quyền trút lên những yếu
kém của chính mình, cái gì không làm được là do những bó buộc của Liên
Hiệp Châu Âu. Cuối cùng Liên Hiệp Châu Âu trở thành đáng ghét dưới mắt
nhiều người và trở thành một chủ đề để các tổ chức dân túy cực hữu khai
thác.
Không
phải là tư tưởng chính trị đã xuống cấp, những ý kiến soi đường vẫn
được nêu ra tại Mỹ cũng như tại Tây Âu và trên khắp thế giới, nhưng
chúng không còn gây được sự chú ý trong một thế giới do giới tài chính
và ngân hàng thao túng. Còn các chính trị gia ? Họ né tránh những câu
hỏi nhức nhối và nấp sau một ngôn ngữ "chính trị phải đạo", politically correct.
Kết quả là người dân các nước giầu mạnh cảm thấy bị thua thiệt, nhất là
nếu bị mất việc làm vì nhiều hoạt động công nghiệp sản xuất được di
chuyển qua những nước đang phát triển. Phong trào toàn cầu hóa và cuộc
cách mạng dân chủ cần được giải thích, nhưng sự giải thích đã không có.
Các đảng truyền thống và các chính trị gia của hệ thống đang trả giá
xứng đáng cho sự từ nhiệm hổ nhục của họ. Như vậy, nếu nhìn một cách tự
tin thì sự trỗi dậy của các lực lượng dân túy cực hữu tại Mỹ và Tây Âu
là một cảnh giác cần thiết.
Hiểu để không hốt hoảng
Sau 100 ngày cầm quyền, Donald Trump đã thú nhận là làm tổng thống Mỹ khó hơn ông tưởng. Sau
một năm ông sẽ thấy nó còn khó hơn rất nhiều, và rồi cả người Mỹ lẫn
ông sẽ đều đồng ý rằng ông không xứng đáng để làm tổng thống Mỹ. Sau một
thời gian tranh cãi, và lần này tranh cãi thẳng thắn, các nước Châu Âu
cũng sẽ nhận ra rằng Liên Hiệp Châu Âu là cần thiết cho hòa bình và phồn
vinh của chính họ. Thế giới cũng sẽ nhận ra rằng trật tự dân chủ là cần
thiết và phải được tôn trọng. Cơn bão dân túy và cực đoan đã đạt tới
cao điểm của nó và từ nay chỉ có thể dịu dần.
Làn sóng dân chủ thứ tư vẫn tràn tới và sẽ còn mạnh hơn sau thử thách này.
Nguyễn Gia Kiểng
(10/05/2017)
(1) Khai Sáng Kỷ Nguyên thứ Hai, chương II.
(2) Obama tại Cairo, dân chủ ở mức độ zero ? (cf. Đọc thêm)
(3) Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, chương IV.
*********************
Đọc thêm :
Obama tại Cairo, dân chủ ở mức độ zero ?
Nguyễn Gia Kiểng, TL237, 07/2009
Obama nói chuyện tại Cairo ngày 4/6/2009
Không
ai có thể phủ nhận rằng những gì mà một tổng thống Mỹ và bộ tham mưu
của ông biết và nghĩ về những vấn đề lớn của thế giới có tầm quan trọng
đặc biệt đối với mọi dân tộc.
Tôi
chỉ biết George W. Bush qua tiểu sử chính thức, báo chí, những bài diễn
văn và những bài phỏng vấn của ông nhưng tôi vẫn có cảm tưởng ông là
một con người thực tiễn và giản dị, quyết định mọi vấn đề một cách nhanh
chóng dựa trên đề nghị của bộ tham mưu thân cận, không hề biết tới kinh
Koran và có thể nghĩ Khổng Tử là một bộ trưởng Nhật, núi Kilimanjaro ở
Nam Mỹ. Obama, trái lại, tỏ ra biết nhiều và nghĩ nhiều về những vấn đề
lớn của thế giới. Bài diễn văn ngày 4/6 (2009) vừa qua tại Cairo của ông
là một thí dụ.
Về
văn phong và hình thức đó là một mẫu mực về soạn thảo thông điệp chính
trị. Bằng những câu và chữ thật giản dị Obama đã đề cập tới các vấn đề
rất lớn một cách thuyết phục và truyền cảm. Bài viết đã hay, cách nói
của Obama lại tuyệt vời, ông nói một cách tự nhiên, không cần giấy trong
vòng gần một tiếng đồng hồ và nói một cách hùng hồn, thu hút. Ông đã
thành công mỹ mãn, diễn văn của ông bị cắt ngang hơn 40 lần vì những
tràng pháo tay nồng nhiệt của trí thức và sinh viên Ai Cập. Lý do thành
công của Obama là ông đã chinh phục được cảm tình của cử tọa, ông tỏ ra
hiểu họ và quý trọng họ - chào họ bằng tiếng Ả Rập assalamu alaikum, trích dẫn nhiều lần kinh Koran. Từ đó tất cả những gì ông nói đều dễ lọt tai.
Về
nội dung Obama đã đề cập tới bẩy vấn đề của thế giới, đặc biệt là của
thế giới Hồi Giáo và vùng Trung Đông, trong đó Hoa Kỳ có vai trò chiến
lược : cuộc chiến chống khủng bố, quan hệ Do Thái – Palestine, Iran và
vũ khí nguyên tử, dân chủ, tự do tôn giáo, quyền phụ nữ, phát triển kinh
tế. Tất cả đều là những vấn đề nền tảng và dài hạn. Người ta có thể lưu
ý là Obama hoàn toàn không nói tới cuộc khủng hoảng kinh tế lớn đang
làm điêu đứng cả thế giới. Trên tất cả những chủ đề này Obama đã đưa ra
những nhận định, đôi khi kèm theo những biện pháp cụ thể đáng được hoan
nghênh, hoặc không có gì để gây bất bình, ít nhất trong thời điểm này.
Tuy vậy trong chiều sâu và trong lâu dài, nếu văn cũng là người, bài
diễn văn này có thể khiến người ta lo ngại về "nhận thức Obama".
Hãy
bắt đầu bằng những điểm đúng : Obama khẳng định quyết tâm của Hoa Kỳ
đương đầu với các lực lượng quá khích hung bạo, ông hoàn toàn có lý khi
coi chúng chỉ thuần túy là những lực lượng khủng bố theo đuổi những mục
tiêu đen tối bằng cách giết hại những thường dân vô tội. Ông càng có lý
khi nhìn nhận rằng Hoa Kỳ trong cơn chấn động sau ngày 11-9-2001 đã sử
dụng những biện pháp sai trái ; người ta chỉ có thể đồng ý với ông, một
mục tiêu trong sáng phải được bảo vệ bằng phương tiện xứng đáng ; người
ta cũng chỉ có thể hoan nghênh quyết định cấm tra tấn và đóng cửa nhà tù
Guantanamo, những tuyên bố như vậy chinh phục cảm tình của thế giới đối
với Hoa Kỳ trong cuộc chiến tại Afganistan. Obama cũng đã nói rất khéo
về Iraq : "Trái với Afganistan, Iraq là cuộc chiến có chọn lựa. Mặc
dù tôi tin rằng nhân dân Iraq sau cùng đã thoải mái hơn sau khi không
còn chế độ bạo ngược của Saddam Hussein, tôi cũng tin rằng những gì đã
xẩy ra tại Iraq đã nhắc nhở Hoa Kỳ rằng, mỗi khi có thể được, phải sử
dụng ngoại giao và tạo đồng thuận quốc tế để giải quyết các vấn đề". George W. Bush cũng không thể
phiền lòng. Obama đã rất thuyết thuyết phục khi viện dẫn lịch sử lập
quốc của Hoa Kỳ để khẳng định Hoa Kỳ hoàn toàn không có tham vọng đế
quốc và không hề nhòm ngó lãnh thổ và tài nguyên của một nước nào và sẽ
triệt thoái quân đội khỏi Iraq và Afganistan ngay khi tình hình cho
phép. Việc nhắc lại lịch trình rút quân khỏi Iraq cũng rất khôn ngoan,
đúng nơi và đúng lúc. Trên vấn đề nhức nhối nhất tại Trung Đông, cuộc
xung đột Do Thái – Palestine, Obama đã tỏ ra sáng suốt và can đảm, ông
đã có thái độ phải có là nhắc lại một cách mạnh mẽ và dứt khoát lập
trường của Hoa Kỳ là người Palestine có quyền và phải được có một quốc
gia đúng nghĩa của riêng họ. Đây là điều đáng hoan nghênh nhất trong bài
diễn văn này. Hoa Kỳ phải nói thẳng thắn như thế đối với người Do Thái
vào lúc họ vừa bầu ra một chính quyền cực hữu với chủ trương bành trướng
rõ rệt. Cuộc xung đột Do Thái – Palestine bế tắc không phải vì nó không
có giải đáp mà vì nó có giải đáp hiển nhiên mà những người trong cuộc,
kể cả hai dân tộc Do Thái và Palestine, không chịu chấp nhận, đó là hai
nhà nước riêng biệt nhìn nhận quyền hiện hữu của nhau và sống chung hòa
bình với nhau. Điều này Hoa Kỳ cần khẳng định một cách thật rõ rệt và
quả quyết một lần cho tất cả để vô hiệu hóa khuynh hướng cực hữu Do Thái
và đồng thời cắt cỏ dưới chân các lực lượng khủng bố sống nhờ lòng thù
hận của người Palestine, và Ả Rập nói chung, đối với Do Thái. Chỉ Hoa Kỳ
có thể làm được điều này bởi vì Do Thái chỉ tồn tại được nhờ sự yểm trợ
của Hoa Kỳ, Do Thái gần như một tiểu bang của Hoa Kỳ ; như Obama nói sự
ràng buộc giữa Hoa Kỳ và Do Thái không thể cắt dứt được. Khuynh hướng
quốc gia cực đoan tại Do Thái chỉ tồn tại vì thái độ của Hoa Kỳ chưa đủ
rõ rệt.
Điều
thực sự mới trong chính sách Trung Đông của Hoa Kỳ là đối với Iran và
sự kiện nước này phát triển kỹ thuật nguyên tử. Obama đã phát biểu một
lập trường mà đáng lẽ Hoa Kỳ đã phải có từ lâu. Từ ba thập niên qua hình
ảnh khuôn mẫu, stereotype, của Iran trong đầu óc người Mỹ là một
nước Iran cuồng tín, hiếu chiến, chống Phương Tây và Hoa Kỳ một cách
hung hăng. Trong hơn mười năm tôi có một cộng sự viên người Iran,
Houshang, tiến sĩ vật lý nguyên tử và rất thông thạo tình hình Iran.
Houshang không phải chỉ là một nhà khoa học mà còn là một nhà hoạt động
chính trị. Houshang là một trong những cấp lãnh đạo của phong trào chống
đối chế độ quân chủ Pahlevi mà biểu tượng là Ayatolla Khomeini. Sau khi
chế độ quân chủ bị lật đổ Houshang trở thành bộ trưởng khoa học kỹ
thuật rồi thất vọng và bỏ ra nước ngoài, hiện là một trong những lãnh tụ
đối lập dân chủ lưu vong hàng đầu. Tôi đã thảo luận rất nhiều với
Houshang về Iran và Houshang cũng giới thiệu cho tôi nhiều trí thức Iran
khác. Tất cả đều cùng nói một điều : người Iran không hề chống Phương
Tây và Hoa Kỳ, cũng không hề cuồng tín, trái lại đa số thích lối sống
dân chủ Phương Tây, thành phần Hồi Giáo Shia quá khích chỉ vào khoảng
5%. Ngay trong giới lãnh đạo hiện nay đa số cũng chỉ quá khích ngoài
mặt. Chính Houshang đã đứng đầu chương trình nguyên tử của Iran để có
thể khẳng định rằng việc chế tạo bom nguyên tử của Iran chỉ là một đòn
tháu cáy. Hình ảnh của nước Iran mà họ mô tả cho tôi hoàn toàn khác với
hình ảnh mà chính giới Hoa Kỳ có. Chỉ tới cách đây hai tuần tờ Newsweek,
trong một số đặc biệt về Iran mới trình bày nước này giống như hình ảnh
mà các bạn tôi mô tả. Tít lớn ngoài bìa của số báo này là "All we know about Iran is wrong"
(Tất cả những gì chúng ta biết về Iran đều sai). Nhiều khi tôi tự hỏi
với những phương tiện và nhân lực hùng hậu như vậy tại sao chính giới
Hoa Kỳ có thể hiểu sai về một quốc gia quan trong như vậy trong một thời
gian dài như vậy.
Tóm
lại đó là một bài diễn văn rất hay. Tuy vậy tôi không thể xua đuổi cảm
tưởng là Obama đã có những ngộ nhận lớn trên một số vấn đề cơ bản.
***
Vấn
đề giữa Phương Tây và thế giới Hồi Giáo có thực sự là mâu thuẫn tôn
giáo như Obama trình bày hay không ? Đó là điều mà các tổ chức khủng bố
như Al Qaeda, Hamas, Hezbollah v.v. muốn người ta nghĩ, nhưng cách nhìn
này không đúng. Không hề có một nước Phương Tây nào chống Hồi Giáo cả,
trái lại các chính quyền Phương Tây, kể cả chính quyền Bush nổi tiếng là
thô vụng về ngoại giao, còn hết sức cố gắng tránh mọi mâu thuẫn với Hồi
Giáo. Cũng không hề có xung đột giữa Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo, các
giáo hoàng Công Giáo La Mã từ hàng thế kỷ nay luôn luôn bày tỏ sự tương
kính đối với các tôn giáo khác kể cả Hồi Giáo, họ còn nhìn nhận những
cuộc thập tự chinh trong quá khứ là sai lầm, xin lỗi và hòa giải với Do
Thái Giáo. Người ta cũng không bao giờ thấy một thái độ bài xích nào từ
các hệ phái Tin Lành. Và nếu muốn thẳng thắn nói công khai sự thực -thay
vì chỉ nói trong phòng khép kín như chính Obama kêu gọi trong bài diễn
văn này- thì phải nói rằng những hành động và cử chỉ quá khích gần đây
đã chủ yếu đến từ một số phần tử Hồi Giáo. Vả lại Phương Tây có còn theo
Thiên Chúa Giáo hay không là cả một câu hỏi. Tại Mỹ có thể còn sấp xỉ
50% dân chúng còn đức tin Thiên Chúa Giáo nhưng tại Tây Âu con số này
chưa tới 10% và đang tiếp tục giảm đi, Thiên Chúa Giáo chủ yếu chỉ còn
là một di sản văn hóa. Hơn nữa nếu coi những khó khăn trong quan hệ của
Trung Đông và đa số các nước Hồi Giáo nói chung với phần còn lại của thế
giới như là một xung đột tôn giáo thì không có giải pháp ổn thỏa nào
cả. Đặc tính của mọi tôn giáo là đặt nền tảng trên đức tin và các đức
tin không thể chứng minh và thảo luận.
Vậy
vấn đề thực sự là gì ? Đó là sự thích nghi bắt buộc của Hồi Giáo với
thời đại mới, nghĩa là triệt thoái khỏi chính trị để trở về vị trí của
một tôn giáo bình thường như các tôn giáo khác. Vấn đề theo đạo và sống
đạo phải được coi như một chọn lựa cá nhân. Không nên tránh né một sự
thực là mọi tôn giáo khởi thủy đều mang tính nhất nguyên, một tôn giáo
không là một tôn giáo nếu chấp nhận rằng điều ngược lại với đức tin của
nó cũng có thể đúng. Do đó dân chủ, mà triết lý nền tảng là chủ nghĩa cá
nhân tự do, đã chỉ thành hình với sự phủ nhận quyền lực của các tôn
giáo. Nền dân chủ Hoa Kỳ đã được thành lập bởi những người ra đi tìm một
quê hương mới để phản đối độc quyền tôn giáo. Trường hợp Hòa Lan cũng
không khác. Cuộc cách mạng Pháp 1789 là cuộc cách mạng vừa chống chế độ
quân chủ vừa chống giáo hội Công Giáo. Tước bỏ quyền lực chính trị của
các tôn giáo là điều kiện tiên quyết của dân chủ. Thiên Chúa Giáo đã
phải trải qua Thế Kỷ Ánh Sáng, le Siècle de Lumière, (thế kỷ 18)
trong đó các tín điều bị chất vấn rồi sau đó chính giáo hội trở thành
nạn nhân của cuộc cách mạng. Khổng Giáo, giữ vai trò một tôn giáo về mặt
chính trị và xã hội, cũng phải bị đẩy lùi tại Đông Á trong cuộc gặp gỡ
với Phương Tây để dọn đường cho các chế độ dân chủ. Đến lượt nó Hồi Giáo
cũng sẽ phải trải qua một cuộc xét lại rất lớn. Đó là điều kiện bắt
buộc để các quốc gia Hồi Giáo có thể trở thành bình thường trong một thế
giới toàn cầu hóa.
Cuộc
xét lại này sẽ rất khó khăn và đau nhức vì những lý do xuất phát từ
chính bản chất của Hồi Giáo. Trái với các tôn giáo khác Hồi Giáo trên nguyên tắc không thể chấp nhận xét lại.
Phật là một người giác ngộ nhưng cũng vẫn là một người, do đó kinh Phật
không có giá trị tuyệt đối. Thánh kinh Thiên Chúa Giáo do những tiên
tri và những tông đồ của Jesus chép lại và cũng có thể không hoàn toàn
chính xác. Đó không phải là trường hợp của kinh Koran. Koran là lời của
chính Thượng Đế nhập vào Muhammad để nói ra vì thế không thể thay đổi.
Xét lại kinh Koran là mặc nhiên nhìn nhận hoặc Allah có thể sai (và như
thế không thể là Allah akbar), hoặc Allah đã không nhập vào
Muhammad ; trong cả hai trường hợp Hồi Giáo chỉ là một sự hiểu lầm. Đoạn
69 của kinh Koran qui định những kẻ thêm bớt kinh Koran sẽ bị chặt tay.
Nhưng
Hồi Giáo bắt buộc phải xét lại vì không thể tồn tại với kinh điển hiện
nay. Nó can thiệp trực tiếp vào quyền lực và chứa đựng quá nhiều điều
không phù hợp với thế giới văn minh. Các tôn giáo lớn nói chung đều ra
đời vì lý do chính trị như một phản ứng với một trật tự xã hội sẵn có và
sau đó trở thành nền tảng cho một quyền lực chính trị mới, nhưng với
những quan điểm khác nhau về tương quan giữa tôn giáo và chính trị, hay
giữa Thượng Đế và Vua. Tựu chung có ba mô hình : trong quan điểm Thiên
Chúa Giáo thượng đế và vua khác nhau và phân biệt với nhau (Jesus : hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, hãy trả cho Caesar những gì thuộc về Caesar)
; trong các xã hội Khổng và Phật Giáo vua là thượng đế ; trong các xã
hội Hồi Giáo thượng đế là vua. Đối với Hồi Giáo chính thống tôn giáo là
chính quyền và luật pháp, Sharia, chỉ là sự áp dụng trực tiếp của
kinh Koran vào đời sống. Sự xét lại đã khiến Thiên Chúa Giáo mất rất
nhiều ảnh hưởng, nhưng nó sẽ còn đau nhức hơn rất nhiều đối với Hồi
Giáo.
Obama
hoặc đã hời hợt hoặc đã mỵ dân khi đề cao Hồi Giáo như là một tôn giáo
bao dung đã góp phần quan trọng cho nền văn minh của thế giới. Đúng là
Hồi Giáo đã có đóng góp lớn, nhưng không lớn như ông đã nói. Còn bao
dung thì chắc chắn là không, ngay chính những đoạn kinh Koran mà ông cắt
để trích dẫn nếu đọc tiếp cũng thấy ngay những hình phạt ghê gớm dành
cho kẻ bị coi là chống Hồi Giáo. Những câu Obama trích ra (ai giết một người vô tội cũng như giết cả nhân loại, ai cứu một người cũng như đã cứu cả nhân loại)
cũng cần được tương đối hóa : chúng chỉ áp dụng cho người Hồi Giáo,
những người không theo Hồi Giáo không vô tội, họ là những kẻ phản bội.
Vô tình hay cố ý Obama cũng đã giải thích sai ý nghĩa của sự kiện nhiều
phụ nữ đã được bầu vào địa vị lãnh đạo cao nhất tại những nước Hồi Giáo
lớn như Turkey, Indonesia, Pakistan, Bangladesh. Điều đó hoàn toàn không
chứng minh Hồi Giáo tôn trọng phụ nữ, cả kinh Koran lẫn luật Sharia đều
không coi phụ nữ ra gì cả, những cuộc bầu cử đó đã chỉ chứng minh rằng
quần chúng Hồi Giáo muốn thay đổi. Các lực lượng Hồi Giáo toàn nguyên
biết như vậy và đã hành động hung bạo vì tuyệt vọng. Một tôn giáo có bao
dung hay không không phải ở chỗ kinh sách có nói những điều nhân hậu,
mà ở chỗ kinh sách không nói những điều nghiệt ngã, và cả Koran
lẫn Sharia đều chứa đụng rất nhiều điều khắc nghiệt. Cũng không nên quên
rằng bạo lực và thánh chiến nằm ngay trong bản chất của Hồi Giáo, trong
bốn giáo chủ kế tiếp Muhammad ba người đã bị giết bởi chính những phe
phái Hồi Giáo. Obama đã quá cường điệu khi tuyên bố : "trách nhiệm
của tôi trong cương vị tổng thống Mỹ là chống lại những hình ảnh đúc
khuôn về Hồi Giáo ở bất cứ nơi nào mà chúng xuất hiện". Đó là công việc của các nhà báo và các nhà nghiên cứu, tổng thống Mỹ có những trách nhiệm cần thiết và cấp bách hơn.
Nói
như thế không phải là để chống Hồi Giáo. Hồi Giáo đã đem đến một tinh
thần quan trọng, đó là sự liên đới giữa các tín đồ vào một lúc mà trên
cả thế giới các xã hội được phân chia thành chủ và tớ, Thiên Chúa Giáo
đã biến chất để trở thành một dụng cụ cai trị của các vua chúa. Đó đã là
sức mạnh của Hồi Giáo khiến nó phát triển một cách mạnh mẽ và nhanh
chóng như chưa bao giờ thấy trong lịch sử nhân loại. Mọi tôn giáo đều ra
đời như một tiến bộ rồi dần dần không thích nghi với chính tiến bộ mà
chúng tạo ra và trở thành một dụng cụ thống trị và một trở ngại cho tiến
bộ. Hồi Giáo cũng không phải là một ngoại lệ. Cũng như Thiên Chúa Giáo
và Khổng Giáo, Hồi Giáo sẽ phải trải qua một cuộc xét lại lớn, nhiều lần
đau nhức hơn Thiên Chúa Giáo. Trong thế kỳ 21 rất có thể Hồi Giáo sẽ
phải chịu chung số phận của Khổng Giáo tại Đông Á, nghĩa là mờ nhạt dần
đi. Đó là điều đang xẩy ra tại Turkey ; tại những thành phố lớn, ngay cả
tại các công viên, vào giờ trưa khi tiếng gọi cầu nguyện vang lên inh
tai nhức óc từ các tháp chuông không còn ai cầu nguyện, người ta vẫn đi
lại, trò chuyện, hút thuốc, uống cà phê như thường lệ, vào các mosque
thì chỉ thấy lác đác vài chục người. Một trong những chuyển hóa quan
trọng nhất của thế kỷ 21 sẽ là sự hoàn tất một tiến trình đã được khởi
đầu và đẩy khá xa trong thế kỷ 20 : bình thường hóa chỗ đứng của Hồi
Giáo trong xã hội.
Vấn
đề thực sự của thế giới Hồi Giáo không phải là mâu thuẫn với Phương
Tây, càng không phải là đụng độ với Thiên Chúa Giáo mà là vấn đề của Hồi
Giáo với chính mình, nghĩa là hòa giải và thích nghi với dân chủ. Đó là
sự thích nghi bắt buộc.
***
Dân
chủ là một trong những vấn đề lớn mà Obama đề cập tới trong bài diễn
văn Cairo. Đó cũng là đoạn mà ông nói ngắn nhất và khiến tôi thất vọng
nhất. Ông là người sang trọng và quyền lực nhất thế giới, tôi chỉ là một
người lưu vong, không có cả quyền đặt chân lên chính quê hương mình
nhưng trong chừng mực mà một kẻ tầm thường cũng có thể có lý tôi phải
nói rằng Obama đã sai. Obama nói rằng không một nước nào có quyền áp đặt
một hệ thống chính trị lên một nước khác. Đúng, nhưng chỉ đúng một
phần. Không phải hệ thống chính trị nào cũng chấp nhận được, có những
giá trị mà mọi quốc gia phải tôn trọng và thể hiện. Và cộng đồng quốc tế
phải áp đặt những giá trị này. Cũng như trong một nước không ai được
quyền áp đặt một nhân sinh quan lên một cá nhân khác nhưng vẫn phải có
luật pháp để bảo đảm một số giá trị chung được mọi người tuân thủ. Chúng
ta không còn ở trong một thế giới man rợ. Obama định nghĩa dân chủ như
nguyên tắc theo đó chính quyền phải phản ánh nguyện vọng của dân chúng,
và mỗi chính quyền thể hiện nguyên tắc này theo cách riêng của mình, tùy
theo truyền thống của mỗi dân tộc. Thật đáng buồn, đây đúng là ngôn ngữ
của các chế độ độc tài bạo ngược. Theo Obama, những nguyện vọng của
người dân là được nói những điều mình nghĩ, được có tiếng nói trong cách
quản trị đất nước, được có một chính quyền không ăn cướp của dân và
được sống theo cách mà mình chọn lựa. Cũng đúng, nhưng đây chỉ là dân
chủ ở mức độ trừu tượng và mơ hồ, mức độ zero về mặt chính trị. Các chế
độ độc tài cũng luôn luôn vỗ ngực tự xưng là phản ánh những nguyện vọng
này của người dân. Chúng còn trâng tráo gọi bộ máy đàn áp là chính quyền
nhân dân, uỷ ban nhân dân, tòa án nhân dân. Nhân loại, sau nhiều đấu
tranh cam go và những hy sinh lớn, đã vượt qua được mức độ lãng mạn và
nguyên tắc, mức độ zero, để đạt tới một định nghĩa tương đối rõ ràng cho
một chế độ dân chủ : đó là một chế độ ít nhất bảo đảm tự do ngôn
luận và báo chí, tự do thành lập và tham gia các tổ chức kể cả các chính
đảng, tự do bầu cử và ứng cử. Đó là định nghĩa của dân chủ đã được
quy định trong bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thành phần của hiến
chương Liên Hiệp Quốc. Dân chủ với định nghĩa trên đây nằm trong công
pháp quốc tế mà Liên Hiệp Quốc và mọi quốc gia có nhiệm vụ bảo đảm sự
tuân thủ. Các chế độ độc tài bạo ngược vi phạm công ước quốc tế, thái độ
đúng và hợp với công pháp quốc tế là đánh đổ chúng trừ khi cái giá phải
trả quá cao, trong trường hợp này cũng phải gây sức ép tối đa.
Đây không phải là lần đầu tiên Obama nói về dân chủ và tự do một cách hời hợt. Trong bài diễn văn nhận chức Obama đã nói : "Đối
với các chính quyền bịt miệng những người đối lập, chúng tôi nói các vị
đi sai chiều lịch sử, nhưng nếu các vị chìa bàn tay thân thiện chúng
tôi cũng sẽ nắm lấy". Tôi ngạc nhiên khi đọc những bài bình luận của
một số người Việt hân hoan vì Obama đã lên án các chế độ bịt miệng đối
lập. Các chế độ độc tài, trong đó có chế độ cộng sản Việt Nam, không
mong gì hơn là được "lên án" như vậy.
***
Tuy
vậy tôi vẫn hoan nghênh việc Obama đắc cử tổng thống Mỹ. Sau hai nhiệm
kỳ của George W. Bush nó đã hòa giải thế giới với Hoa Kỳ, vừa đánh dấu
một bước tiến ngoạn mục trong cuộc đấu tranh đẩy lùi tệ kỳ thị mầu da
vừa tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc chiến đấu chống khủng bố. Tôi cũng
không lo ngại lắm về nhận thức mà tôi nghĩ là thiếu hụt của ông. Xã hội
dân sự Hoa Kỳ có tiếng nói quyết định và các tổ chức bảo vệ nhân quyền
Mỹ vẫn rất mạnh, họ còn có ảnh hưởng lớn hơn với một chính quyền thuộc
đảng Dân chủ. Vả lại chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ không thay đổi bao
nhiêu dù là dưới một tổng thống Dân Chủ hay Cộng Hòa. Hoa Kỳ vẫn là một
yểm trợ vững mạnh cho cuộc vận động dân chủ. Chính Obama phải thận
trọng.
Mùa
hè năm ngoái vào giữa lúc cuộc tranh cử tổng thống Mỹ đang sôi nổi, một
người bạn thuộc đảng Dân Chủ hoan hỉ khoe với tôi rằng Obama có một ban
viết diễn văn rất trẻ. Sự tươi mát của tuổi trẻ quả nhiên thể hiện
trong văn phong những bài diễn văn của ông. Chính Obama cũng rất trẻ.
Nhưng tuổi trẻ không phải bao giờ cũng là một ưu thế, đôi khi tuổi trẻ
cũng là khoảng đời mà người ta chưa đủ thời giờ nghiên cứu và rà soát để
gạt bỏ những ngộ nhận và bổ túc những thiếu sót. Tôi cũng nhận xét là
trong bộ tham mưu của Obama không có một nhà tư tưởng chính trị nào dù
đó là điều rất cần thiết ; tư tưởng khiến hoạt động chính trị có ý nghĩa
lâu dài và cho phép người ta có thể uyển chuyển mà không mất định
hướng. Obama trong cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng bằng những
bài diễn văn dễ lọt tai nhưng đôi khi hụt hẫng về nhận thức có thể gây
thất vọng cho những người thực sự hiểu biết và có tầm nhìn, những người
cuối cùng cũng vẫn có vai trò lãnh đạo tinh thần và tạo ra dư luận.
Nguyễn Gia Kiểng
Nguồn : TL237, 07/2009